Headline & Chia sẻ
Có nên vo gạo trước khi nấu cơm không?
Có một số tranh luận về việc liệu có cần thiết phải vo gạo trước khi nấu hay không?. Không. Nhưng liệu nó có làm cho cơm của bạn tơi xốp và tươi ngon đồng thời giảm nguy cơ hạt bị nhão không? Chắc chắn rồi. Hãy coi gạo như một loại tinh bột khác như mì ống, bún phở khô… Khi bạn nấu một nồi mì ống, chất lỏng nấu ăn sẽ chuyển sang màu đục do tất cả các tinh bột trên bề mặt do mì tiết ra. Trong nồi gạo, nước đó ngấm vào hạt gạo cho đến khi gạo chín và chảo khô.
Điều đó có nghĩa là tất cả tinh bột trên bề mặt của gạo bị khóa lại giữa các hạt gạo, liên kết chúng thành một khối hỗn độn vón cục và nhão nhoét. Vo gạo trước khi nấu sẽ giúp lớp tinh bột bám trên gạo trôi đi đâu đó bên cạnh nồi.Ngâm để gạo hấp thụ nước, giúp gạo nấu chín. Điều này giúp hạt cơm có kết cấu đẹp hơn, đều hơn, thay vì bị khô trong khi bên trong không được hấp đều nước.
Để có kết quả tốt nhất, hãy vo gạo trong một cái rây lưới mịn dưới vòi nước cho đến khi nước trong. Nó sẽ không thay đổi cuộc sống của bạn, nhưng nó chắc chắn sẽ thay đổi cơm áo gạo tiền của bạn.Các hạt gần như quá tách biệt. Khi chị đầu bếp tiến hành rửa và ngâm gạo trước khi nấu thì cơm thật sự bông xốp, hơi dính (theo cách tốt), và các hạt trông nhẹ và đục hơn. Nhà chị ấy cũng ăn ngon miệng hơn, giống như cơm nhà hàng thực sự.
Nếu bạn đang nghi ngờ về việc liệu gạo có xứng đáng với nỗ lực để ngâm mình hay không, tôi muốn nói rằng đừng ngần ngại cam kết. Gạo của bạn sẽ cảm ơn bạn!
Làm thế nào để nấu cơm gạo hạt dài trong nồi cơm điện
Gạo hạt dài nấu lâu hơn nhiều so với gạo trắng vì nó có lớp ngoài dày và mất nhiều thời gian để mềm hơn. Vì vậy, bạn có thể nấu gạo hoang trong nồi cơm điện, nhưng hãy sử dụng chế độ cài đặt gạo lứt, thời gian nấu từ 30 phút đến 80 phút, tùy thuộc vào thương hiệu.
Cho 1 nắm gạo dại, hạt dài vào bát. Thêm nước lạnh vừa đủ để ngập hết gạo. Lắc nhẹ các hạt gạo trong nước. Xả nước bằng cách cho gạo vào rây. Vo gạo ba lần nữa.
Cho gạo trở lại bát và cho nước vào. Để nó ngâm trong 30 phút.
Rửa gạo để làm sạch mọi tạp chất trên bề mặt. Việc ngâm gạo cũng giúp gạo có kết cấu mềm hơn và mềm hơn.
Cho cơm vào hộp chống dính của nồi cơm điện. Thêm hai cốc nước lạnh. Nấu ở chế độ “gạo lứt”. Chu kỳ hoàn chỉnh chạy khoảng 30 phút. Khi chu trình hoàn tất, hãy kiểm tra xem gạo đã được nấu chín kỹ và có độ bông xốp chưa. Nếu không, hãy để cơm nóng ở chế độ “giữ ấm” trong 30 phút. Thao tác này sẽ loại bỏ nước còn sót lại trong gạo và giúp gạo mềm hơn. Dùng thìa khuấy cơm để kiểm tra độ kết dính.
Mẹo
Có thể có nước dư trong nồi sau khi cơm chín. Nếu còn thừa nước, hãy xả từ từ gạo ra ngoài bằng cách nghiêng nồi chứa một góc 45 độ. Nếu không, hãy đặt nó ở chế độ “giữ ấm” trong 30 phút nữa.
Nghiên cứu Gạo nảy mầm: Hàm lượng γ-Aminobutyric acid (GABA) khác nhau giống gạo lứt trong quá trình nảy mầm
Tác giả nghiên cứu: D. Karladeea; b; ∗, S. Suriyonga
a. Khoa Khoa học Thực vật và Tài nguyên Thiên nhiên, Khoa Nông nghiệp, Đại học Chiang Mai, Chiang Mai 50200 Thái Lan
b. Ban nghiên cứu lúa tím, Viện Khoa học và Công nghệ, Đại học Chiang Mai, Chiang Mai 50200 Thái Lan
∗ Cùng tác giả, e-mail: [email protected]
Nhận ngày 20 tháng 9 năm 2011
Được chấp nhận ngày 21 tháng 2 năm 2012
TÓM TẮT: Hạt gạo giàu axit gamma-aminobutyric (GABA) đang ngày càng phổ biến, đặc biệt là trên thị trường thực phẩm tốt cho sức khỏe. Mức độ GABA trong gạo bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả thời gian ủ hạt, đặc biệt là trong hạt gạo lứt trước khi nảy mầm. Trong báo cáo này, năm thời gian ủ khác nhau (0, 12, 24, 36 và 48 giờ) và 21 giống lúa (11 giống lúa tím và 10 giống trắng hiện đại) đã được thử nghiệm. Kết quả cho thấy hàm lượng GABA tăng đều đặn từ 3,96 mg / 100 g chất khô trong thời gian 0 giờ (tức là không có thời gian ủ) lên 10,04 mg / 100 g chất khô sau 12 giờ, đạt mức cao nhất là 17,87 mg / 100 g chất khô ở 24 giờ ủ, và sau đó giảm liên tục sau đó xuống lần lượt là 9,91 và 1,36 mg / 100 g chất khô ở 36 và 48 giờ. Mối tương quan của mức GABA ở 0 giờ và 24 giờ đã được phát hiện (r = 0,48). Sự biến đổi kiểu gen được phát hiện từ tối thiểu là 6,50 đến tối đa là 10,10 mg / 100 g chất khô, với giá trị trung bình là 8,03. Tại thời điểm 24 giờ, giống lúa gạo trắng KDML 105 và giống lúa tím Kum Doi Saket (lần lượt là 23,48 và 23,63 mg / 100 g chất khô) có hàm lượng GABA cao nhất trong tất cả 21 giống lúa. Điều này cho thấy tầm quan trọng của giống lúa tím địa phương trong việc bổ sung giá trị dinh dưỡng cho các sản phẩm thực phẩm chức năng.
TỪ KHÓA: thời gian ủ, giống lúa hiện đại, giống lúa nương, giống lúa tím
GIỚI THIỆU
Chất lượng hạt gạo biểu thị các đặc tính khác nhau đối với các nhóm khác nhau trong hệ thống sau thu hoạch (1). Điều đáng ngạc nhiên là trong loại hạt nhỏ bé này lại chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng có khả năng làm thực phẩm chức năng.
Carbohydrate đại diện cho phần lớn chất dinh dưỡng được tìm thấy trong ngũ cốc đánh bóng trắng, nhưng protein, vitamin B và C, và nhiều khoáng chất có trong phôi, cám (pericarp) và vỏ trấu. Hơn nữa, chất béo chiết xuất từ cám có chứa vitamin E, phytosterol và γ-oryzanol, một chất chống oxy hóa được sử dụng trong nhiều liệu pháp thảo dược thay thế, chất ức chế tiết axit dạ dày, chất chống oxy hóa và chất ức chế kết tập tiểu cầu ngăn ngừa các cơn đau tim (2). Ngoài ra, trong quá trình ủ mạch nha, khi quá trình sinh hóa diễn ra, carbohydrate được chuyển đổi thành oligosaccharide và giảm tỉ lệ đường.
Quá trình tiêu hóa protein từ ngũ cốc tạo ra các axit amin, peptit, và tích tụ nhiều chất dinh dưỡng như gamma oryzanol, tocopherol, tocotrienol và axit γ-aminobutyric (GABA) (3–6). GABA là một axit amin không phải protein bốn cacbon, được tạo ra chủ yếu bằng quá trình khử cacbon của axit Lglutamic, được xúc tác bởi enzym glutamat decarboxylase trong quá trình nảy mầm của gạo lứt (BR) (7). Ngâm BR trong 72 giờ trong nước 30 ° C, ở độ ẩm 13–15%, làm tăng hàm lượng GABA của gạo lứt trước khi nảy mầm từ 6,0 mg trong BR thường trước khi nảy mầm lên đến 69,2 mg và lên 149,0 mg ở 96 giờ, Cao gấp 40 lần so với gạo đánh bóng (1,7 mg) (4). Hàm lượng này cao hơn trong 21 giờ xử lý khí ở 35 ° C (24,9 mg / 100 g) so với phương pháp ngâm thông thường (10,1 mg / 100 g) (8). GABA là chất dẫn truyền thần kinh trong não và tủy sống của động vật có vú, và gây ra tác dụng hạ huyết áp, lợi tiểu và an thần (8, 9). Hơn nữa, chiết xuất GBR có chứa GABA cũng được sử dụng làm thuốc để cải thiện lưu lượng máu trong não10, để ức chế sự tăng sinh của tế bào ung thư (11 –13), và các tác dụng có lợi cho sức khỏe khác.
Tổng hàm lượng của các hợp chất phenolic không hòa tan tăng từ 18,47 mg / 100 g bột ở BR lên 24,78 mg / 100 g bột ở GBR14.
Mức GABA trong GBR bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả thời gian ủ hạt. Sự khác biệt di truyền giữa các giống lúa về khả năng tổng hợp GABA trong ngũ cốc cũng đáng được đánh giá, vì đa dạng di truyền là điều kiện tiên quyết cơ bản để khai thác thành công các tính trạng mong muốn thông qua chọn giống (15). Trong báo cáo này, năm thời gian ủ khác nhau (0, 12, 24, 36 và 48 giờ) và 21 giống lúa (11 giống lúa và 10 giống hiện đại; Oryza sativa L.) đã được thử nghiệm. Một thiết kế giai thừa với 4 lần lặp lại được áp dụng: hạt gạo lứt của 4 loại giống lúa (Bảng 1) là ô chính và thời gian ủ là ô phụ. Thí nghiệm được thực hiện tại Bộ môn Thực vật và Tài nguyên Thiên nhiên, Khoa Nông nghiệp, Đại học Chiang Mai, Thái Lan.
Bảng 1 Các giống lúa được sử dụng trong thí nghiệm.
Modern | Modern | Landrace | Landrace |
non-glutinous | glutinous | upland | purple glutinous |
rice varieties | rice varieties | rice varieties | rice varieties |
KDML 105 | RD10 | Bue Ki | Kum Nan |
(Pathum Thani 1) | Niaw Sanpatong | La Sor Dang | Kum Phayao |
Chai Nat 1 | Muey Nawng 62 M | Bue pa dao | Kum Doi Saket |
Suphan Buri 90 | Taichung | Ni Kor | Kum Vietnam |
Phitsanulok 2 | Ja Nor Na | Kum Doi Musur | |
RD23 | Kum 88082 |
Lưu ý: Các tên khác nhau của các giống lúa Landrace và lúa Tím được đặt theo tên địa phương của chúng.
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Các mẫu hạt gạo (50 mg) được ngâm trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng và đặt trong tủ ấm trong thời gian quy định. Các hạt nảy mầm được làm khô trong lò không khí nóng ở 100 ° C trong 30 phút. Ở độ ẩm 13–14 %16, các hạt sau đó được đập như gạo lứt nảy mầm. Các mẫu gạo lứt nảy mầm được nghiền trước khi chiết tách GABA bằng phương pháp của Kitaoka và Nakano (17). Hàm lượng GABA được định lượng bằng phương pháp đo quang phổ.
Định lượng mẫu GABA
Mỗi mẫu gạo xay (3 mg) được hòa tan với 80% etanol trong ống nghiệm (18 × 120 mm), lắc kỹ, sau đó lọc bằng giấy lọc (số 1). Dung dịch đã lọc được đun sôi trong nồi cách thủy (80 ° C) để làm bay hơi etanol. Tiếp theo là thêm 0,5 ml nước cất, và sau đó ly tâm ở tốc độ 10000 vòng / phút trong 10 phút. Phần nổi ở trên được hút và 0,2 ml dung dịch đệm borat 0,2 M và 1,0 ml phenol 6% được thêm vào. Đối với dung dịch GABA chuẩn (0,1–0,3 ml) được thêm vào các ống nghiệm (18 × 120 mm) cùng với 0,2 ml đệm borat và 1,0 ml thuốc thử phenol.
Các dung dịch được trộn kỹ và làm nguội trong bể làm lạnh trong 5 min. Tiếp theo, 0,4 ml NaOCl 10–15% được thêm vào, và lắc mạnh dung dịch trong 1 phút, và lại làm lạnh trong bể làm mát trong 5 phút. Cuối cùng, dung dịch được đun sôi trong nồi cách thủy (100 ° C) trong 10 phút, và để nguội. Mật độ quang học được xác định bằng phép đo quang phổ ở bước sóng 630 nm, với etanol 2,0 ml làm mẫu trắng. Hàm lượng GABA được định lượng bằng cách so sánh số đọc mật độ quang với đường cong hàm lượng GABA tiêu chuẩn (y = 0,049 + 10,14x).
KẾT QUẢ
Định lượng hàm lượng GABA của mẫu
Kết quả (Bảng 2) cho thấy hàm lượng GABA được phát hiện, ngay cả ở thời gian 0 giờ (tức là không có thời gian ủ bệnh), với mức trung bình là 3,96 mg / 100 g chất khô đối với tất cả các giống. Hàm lượng GABA trung bình tăng đều đặn lên 10,04 mg / 100 g chất khô sau 12 giờ, đạt mức cao nhất là 17,87 mg / 100 g chất khô ở 24 giờ ủ, và sau đó giảm liên tục xuống 9,91 và 1,36 mg / 100 g chất khô ở 36 và 48 h, tương ứng. Điều này cho thấy rằng ủ 24 giờ là tối ưu để sản xuất gạo GABA. Trong sáu giống, hàm lượng GABA vượt quá 20,0 mg / 100 g chất khô ở 24 giờ; ba là giống hiện đại (KDML 105, Phitsanulok 2, RD10), hai là lúa tím (Kum Nan và Kum Doi Saket), và một là lúa nương (Ni Kor) (Hình 1). Hơn nữa, sự khác biệt di truyền về hàm lượng GABA giữa các giống đã được phát hiện: 6,50 mg / 100 g chất khô đến 10,10 mg / 100 g chất khô (giá trị trung bình của tất cả các lần ủ). Các giống hiện đại (KDML 105, RD10 và Niaw Sanpatong) cùng với các giống lúa tím (Kum Doi Saket và Kum 88082) cho thấy hàm lượng GABA cao nhất. Tuy nhiên, các giống lúa phản ứng khác nhau đối với thời kỳ ủ. Ví dụ, ở thời điểm ủ 12 giờ Chai Nat 1 có hàm lượng GABA bằng với hàm lượng của KDML 105, tuy nhiên ở 24 giờ chúng khác nhau (Bảng 2).
Hệ số tương quan r = 0,48 (p 6 0,05) của mức GABA ở 0 giờ và 24 giờ là dương tính cho thấy một kiểu gen có mức GABA cao ở 0 giờ có thể được mong đợi là kiểu gen tổng hợp GABA cao hơn ở 24 giờ ủ (Hình. 1).
Khi so sánh bốn loại gạo chính (Bảng 3), ở 0 giờ (không có thời gian ủ) mức GABA không khác biệt đáng kể: 3,96–4,29 mg / 100 g chất khô. Nhưng sự khác biệt xuất hiện sau khi các hạt được ủ. Các giống hiện đại tổng hợp nhanh chóng chất dinh dưỡng. Ở 12 giờ, mức GABA ở các giống hiện đại (10,64 và 11,72 mg / 100 g chất khô) cao hơn ở các giống lúa đất và gạo tím (8,90 và 9,28 mg / 100 g chất khô). Tuy nhiên, các mức đều bằng nhau với thời gian ủ là 24 giờ và duy trì ở mức rất thấp ở 48 giờ.
THẢO LUẬN
Hàm lượng GABA ban đầu được phát hiện ở khoảng thời gian 0 h (tức là không có thời gian ủ) có thể là axit amin gamma bao gồm chủ yếu là globulin và một phần nhỏ của albumin18. Khi ngũ cốc được ngâm, quá trình xâm nhập bắt đầu xảy ra, và trong vòng 6-12 giờ, quá trình hô hấp được tăng tốc, điều này tiếp tục kích thích sự trao đổi chất của các axit amin, dẫn đến sự hình thành các hệ thống enzym. Axit amin như GABA cũng được tổng hợp, và sự gia tăng nhanh chóng của nó có thể được phát hiện khi ủ 12 giờ. Gia tốc vẫn nhanh từ 12–24 giờ, khi hàm lượng GABA đạt mức cao nhất và cho thấy mức cao nhất khi ủ 24 giờ. Điều này hơi khác so với một nghiên cứu với gạo japonica 8, trong đó mức GABA cao nhất được phát hiện ở 72 giờ. Hàm lượng GABA giảm khi thời gian ủ đạt 36 và 48 giờ, có nghĩa là thời gian ủ 24 giờ là thời gian tối ưu để chế biến gạo lứt nảy mầm (gạo GABA hoặc GBR). Sự tương tác đáng kể giữa kiểu gen và thời gian ủ cho thấy rõ ràng rằng, nếu có bất kỳ khoảng thời gian nào ngoài 24 giờ được sử dụng để ủ gạo lứt trong chế biến GBR, thì giống lúa thuận lợi cụ thể cần được xem xét.
Sự tương đồng về mức GABA trong thời gian 24 giờ khi so sánh các giống lúa hiện đại với các giống lúa gạo và gạo tím cho thấy tính hữu ích đáng kể của các giống lúa địa phương không được cải tiến trong chế biến GBR. Đặc biệt, giống lúa tím Kum Doi Saket không chỉ tích lũy hàm lượng GABA cao mà còn sở hữu sắc tố tím là anthocyanidin (cyanidin-3-glucoside và peonidin-3-glucoside). Hàm lượng của sắc tố có liên quan đáng kể đến tổng hoạt tính chống oxy hóa của cám gạo đen, và có hoạt tính cao hơn gấp 6–8 lần so với cám gạo trắng (19). Điều này cho thấy tầm quan trọng của giống lúa địa phương trong việc bổ sung giá trị dinh dưỡng cho các sản phẩm thực phẩm chức năng.
Hàm lượng GABA khác nhau được tìm thấy giữa các giống lúa chủ yếu là do cấu tạo di truyền của chúng. Giống KDML 105 cũng có khả năng tổng hợp GABA, và sự khác biệt về tích lũy GABA xảy ra giữa các giống lúa Thái Lan20. Sự thừa hưởng đặc điểm này khá phức tạp. Sự biến đổi mà chúng tôi tìm thấy ở lúa đất nằm trong biến thể được tìm thấy ở lúa hiện đại, biểu thị rằng biến dị di truyền tồn tại trong tự nhiên, vì đánh giá đa dạng di truyền là điều kiện tiên quyết cơ bản để khai thác thành công các đặc điểm mong muốn thông qua chọn giống15. Do đó, các kết quả được trình bày trong bài báo này cho thấy các cơ hội trong việc lai tạo để tích lũy GABA và KDML 105, RD10, Niaw Sanpatong và Kum Doi Saket (gạo nếp tím), có thể được sử dụng làm giống bố mẹ để đưa đặc tính vào các giống indica hiện nay được trồng ở châu Á.
Mối tương quan thuận được tìm thấy giữa hàm lượng GABA lúc 0 giờ và thời gian ủ 24 giờ biểu thị rằng mức GABA ở 0 giờ có thể dự đoán mức GABA ở 24 giờ. Điều này có thể mang lại lợi nhuận cho chương trình nhân giống lúa để nâng cao GABA và cũng có lợi cho việc tối ưu hóa các tiêu chí lựa chọn. Vì GABA là một hợp chất có chức năng sinh học, nên đây có thể trở thành một phương pháp đầy hứa hẹn để phát triển một sản phẩm thực phẩm giàu GABA, đồng thời tăng cường tiêu thụ GBR ở Thái Lan cũng như ở tất cả các nước sản xuất lúa gạo khác.
Lời cảm ơn: Chúng tôi muốn cảm ơn Dự án Đại học Nghiên cứu Quốc gia thuộc Văn phòng Ủy ban Giáo dục Đại học Thái Lan đã hỗ trợ tài chính.
Hình 1: Hàm lượng GABA (mg / 100 g chất khô) trong hạt nảy mầm của (a) gạo tẻ hiện đại, (b) gạo nếp hiện đại, (c) gạo nương, và (d) giống gạo tím theo thời gian ủ.
NGƯỜI GIỚI THIỆU
1. Juliano BO, Duff B (1989) Đặt ra các ưu tiên cho nghiên cứu chất lượng hạt gạo. Trong: Kỷ yếu Hội thảo kỹ thuật ASEAN lần thứ 12 về Công nghệ sau thu hoạch ngũ cốc, Surabaya, Indonesia, ngày 29-31 tháng 8.
2. Cicero AFG, Gaddi A (2001) Dầu cám gạo và γ-oryzanol trong điều trị tăng lipid máu và các bệnh chứng khác. Phytother Res 15, 277–89.
3. Boonsit P, Karladee D, Phongpiachan P (2010) Hàm lượng gamma oryzanol trong giống gạo nếp tím. Đại học Chiang Mai J Nat Sci 9, 151–7.
4. Ohtsubo K, Suzuki K, Yasui Y, Kasumi T (2005) Các thành phần chức năng sinh học trong gạo lứt nảy mầm trước chế biến bằng máy đùn trục vít đôi. J Food Compos Anal 18, 303–16.
5. Juliano BO (1993) Gạo trong Dinh dưỡng Con người, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO), Rome, trang 61–84.
6. Reggiani R, Cantu CA, Brambilla I, Bertani A (1988) Sự tích lũy và chuyển đổi lẫn nhau của các axit amin trong rễ lúa trong điều kiện thiếu oxy. Plant Cell Physiol 29, 981–7.
7. Bown AW, McLean MD, Shelp BJ (1999) Sự trao đổi chất và chức năng của axit gamma-aminobutyric. Xu hướng Plant Sci 4, 446–52.
8. Komatsuzaki N, Tsukahara K, Toyoshima H, Suzuki T, Shimizu N, Kimura T (2007) Ảnh hưởng của quá trình ngâm và xử lý khí đến hàm lượng GABA trong gạo lứt nảy mầm. J Thực phẩm Eng 78, 556–60.
9. Akama K, Kanetou J, Shimusaki S, Kawakami K, Tsuchikura S, Takaiwa F (2009). Chuyển gen Res 18, 865–76.
10. Okada T, Sugishita T, Murakami T, Murai H, Saikusa T, Horino T, Onoda A, Kajimoto O, Takahashi R, Takahashi T (2000) Tác dụng của mầm gạo đã khử chất béo làm giàu GABA đối với chứng khó ngủ, trầm cảm, rối loạn tự trị bằng đường uống. Nippon Shokuhin Kagaku Kogaku Kaishi 47, 596–603.
11. Oh CH, Oh SH (2004) Ảnh hưởng của chất chiết xuất từ gạo lứt nảy mầm với mức độ GABA tăng cường đối với sự tăng sinh và quá trình chết của tế bào ung thư. J Med Food 7, 19–23.
12. Kawabata K, Tanaka T, Murakami T, Okada T, Murai H, Yamamoto T, Hara A, Shimizu M, Yamada Y, Masunaga K, Kuno T, Yoshimi N, Sugie S, Mori H (1999) Chế độ ăn uống ngăn ngừa azoxymethane -cảm nhận
sinh ung thư ruột kết với mầm lúa ở chuột F344. Chất sinh ung thư 20, 2109–15.
13. Mori H, Kawabata K, Yoshimi N, Tanaka T, Murakami T, Okada T, Murai H (1999) Tác dụng ngăn ngừa hóa chất của axit ferulic đối với miệng và mầm gạo đối với sự hình thành ung thư ruột già. Chất chống ung thư Res 19, 3775–8.
14. Tian S, Nakamura K, Kayahara H (2004) Phân tích các hợp chất phenolic trong gạo trắng, gạo lứt và gạo lứt nảy mầm. J Agr Food Chem 52, 4804–13.
15. Koutroubas SD, Mazzini F, Pons B, Ntanos DA (2004) Sự biến đổi chất lượng hạt và mối quan hệ với các tính trạng sinh lý học trong nguồn gen lúa (Oryza sativa L.) ở Châu Âu. Trường Crop Res 86, 115–30.
16. Hiệp hội Kiểm nghiệm Hạt giống Quốc tế (2006) Xác định Độ ẩm trong Quy tắc Quốc tế về Kiểm tra Hạt giống, ISTA, Bassersdorf, Thụy Sĩ, Chương 9 (9.1.5.8).
17. Kitaoka S, Nakano Y (1969) Xác định màu của axit! -Amino. J Sinh hóa 66, 87–94.
18. Bewley JD, Black M (1985) Sinh lý học về sự phát triển và nảy mầm của hạt, xuất bản lần thứ 2, Plenum Press, New York, trang 18–26.
19. Zhang MW, Zhang RF, Zhang FX, Liu RH (2010) Cấu hình phenolic và hoạt tính chống oxy hóa của cám gạo đen thuộc các giống thương mại khác nhau. J Agr Food Chem 58, 7580–7.
20. Varanyanond W, Tungtrakul P, Surojanametakul V, Watanasiritham L, Luxiang W (2005) Ảnh hưởng của việc ngâm nước đối với axit gamma-aminobutyric (GABA) trong mầm của các giống lúa khác nhau của Thái Lan. Kasetsart J (Nat Sci) 39, 411–41.
Tìm hiểu gạo đen hữu cơ nảy mầm gaba
Gạo lứt nảy mầm đôi khi được bán với tên gọi gạo GABA hoặc dưới tên tiếng Nhật là hatuga genmai. Dạng gạo lứt này đã được nảy mầm, nhưng nó có thể được sử dụng trong các công thức nấu ăn giống như cách bạn làm với gạo lứt thông thường. Quá trình nảy mầm làm tăng hàm lượng axit gamma-aminobutyric, hoặc GABA, một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng ảnh hưởng đến não và các cơ quan khác và cơ bắp của bạn.
Mục lục
- 1 Màu sắc giống nhau, đặc điểm khác nhau giữa các loại gạo lứt
- 2 Làm Gạo tự nảy mầm
- 3 Mẹo nấu gạo nảy mầm và sử dụng gạo Gaba
- 4 Gạo nảy mầm Gaba tốt hơn cho bạn
- 5 Mua sản phẩm gạo đen hữu cơ tại đây >>
- 6 Tìm hiểu nghiên cứu Gạo nảy mầm: Hàm lượng γ-Aminobutyric acid (GABA) khác nhau giống gạo lứt trong quá trình nảy mầm
Màu sắc giống nhau, đặc điểm khác nhau giữa các loại gạo lứt
Tất cả gạo lứt đều chứa các chất dinh dưỡng, chẳng hạn như chất xơ, axit phytic, vitamin C, vitamin E và GABA. Nhưng khi gạo lứt được nảy mầm, các chất dinh dưỡng dự trữ trong hạt sẽ bị phân hủy thành các dạng dễ tiêu hóa hơn bằng các quá trình sinh hóa. Trong khi gạo lứt thông thường có vị hơi đắng, dai và có thể gây đầy hơi, thì gạo lứt nảy mầm nấu chín có kết cấu mềm hơn, vị ngọt hơn và dễ no bụng hơn. Thời gian nấu gạo nảy mầm so với gạo lứt thông thường cũng ngắn hơn – 30 đến 35 phút so với 45 phút.
Làm Gạo tự nảy mầm
Tạo gạo GABA từ gạo lứt thô tươi, lưu ý rằng gạo lứt cũ có thể không nảy mầm. Kiểm tra ngày “bán theo ngày” trên bao bì để đảm bảo. Gạo có thể là loại gạo ngắn, hạt trung bình hoặc hạt dài hoặc basmati màu nâu. Sau khi kiểm tra bất kỳ tạp chất hoặc côn trùng có thể, ngâm gạo trong nước lọc. Xả gạo và giữ ở nhiệt độ phòng trong hộp có thể thoát nước. Rửa sạch và để ráo gạo hai lần một ngày cho đến khi các đầu của mỗi hạt gạo nở ra đầy hơn và to hơn và có “đuôi”, điều này xảy ra trong vòng vài ngày. Đó là dấu hiệu lúa đã nảy mầm.
Mẹo nấu gạo nảy mầm và sử dụng gạo Gaba
Vo sạch gạo và để ráo trước khi nấu. Thêm tỷ lệ 1 1/2 cốc nước lạnh vào 1 cốc gạo GABA vào nồi. Đun sôi nước và gạo, sau đó giảm lửa nhỏ, đậy nắp và đun nhỏ lửa trong 35 phút. Bạn có thể sử dụng nồi cơm điện, nhưng hãy đậy nắp trong 10 phút sau khi hẹn giờ tắt để hơi nước có cơ hội nấu chín hoàn toàn cơm và tạo ra kết cấu mềm hơn. Khi kết thúc quá trình nấu, dùng đũa, nĩa xới cơm để tách các hạt.
Cơm GABA nấu chín sẽ giữ được từ ba đến bốn ngày trong tủ lạnh.
Gạo nảy mầm Gaba tốt hơn cho bạn
Ngoài khả năng tiêu hóa tốt hơn, gạo GABA còn có các lợi ích sức khỏe khác. Năm 2004, các nhà nghiên cứu Nhật Bản tại Hội nghị gạo quốc tế do Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc tổ chức đã báo cáo một số nghiên cứu về gạo GABA với kết quả đầy hứa hẹn. Các nhà nghiên cứu cho biết, tiêu thụ gạo GABA theo thời gian có thể giúp giảm huyết áp, cải thiện chức năng thận, giảm chứng mất ngủ và giúp ngăn chặn sự khởi phát của bệnh Alzheimer. Nó thậm chí còn được chứng minh là có thể tiêu diệt các tế bào bệnh bạch cầu trong phòng thí nghiệm, theo nghiên cứu.
Họ cũng lưu ý rằng lượng GABA trong gạo lứt nảy mầm cao gấp 10 lần so với gạo trắng xay xát và gấp đôi so với gạo lứt thông thường.
Mua sản phẩm gạo đen hữu cơ tại đây >>
Tìm hiểu nghiên cứu Gạo nảy mầm: Hàm lượng γ-Aminobutyric acid (GABA) khác nhau giống gạo lứt trong quá trình nảy mầm
Các món ngon phổ biến tại Lào
Các món ăn của Lào rất giống với Thái Lan và Việt Nam về hương vị và nguyên liệu, thường bao gồm thảo mộc tươi, gia vị, mì và gạo. Khao niaw (xôi) là một loại thực phẩm chính trong số những người Lào. Theo truyền thống được hấp trong một giỏ tre hình nón, gạo sau đó được đặt trong một cái giỏ có mái che, nơi nó được ăn bằng tay cùng với súp cay và các món ăn từ thịt. Ăn ở Lào cũng là một hoạt động chung, nơi các món ăn được chia sẻ cho tất cả mọi người tại bàn.
Ngoài các món ngon địa phương, thủ đô Viêng Chăn của Lào được phục vụ bởi các nhà hàng và quán cà phê ngon của Pháp – một phần còn lại của thời kỳ thuộc địa của đất nước. Nếu bạn đang muốn thưởng thức các món ăn đích thực trong kỳ nghỉ của mình, hãy xem danh sách các món ăn nhất định phải thử ở Lào.
- Kaipen (rong biển chiên)
Kaipen (hay kai paen ) là một loại đồ ăn nhẹ của Lào được làm từ tảo xanh nước ngọt được thu hoạch từ sông Mê Kông ở phía bắc Lào. Sau khi rửa sạch, tảo được ép thành những tờ giấy mỏng và tẩm ướp với tỏi và hạt vừng, trước khi nó được phơi khô dưới ánh mặt trời.
Cách tốt nhất để ăn kaipen bằng cách chiên các tấm cho đến khi giòn và ăn với jaew bong – nước chấm này là sự kết hợp của ớt nướng và miếng da trâu mỏng.
Mục lục
2. Khao Jee (Cây đũa phép)
Khao jee tương tự như bánh mì Việt Nam – bạn sẽ nhận được một chiếc bánh mì nhồi rau xà lách, cà chua thái lát, cà rốt, hành tây, moo yor (thịt lợn ăn trưa), giăm bông và trên cùng với nước sốt ớt hoặc ớt.
Bạn sẽ tìm thấy nhiều người bán hàng rong bán món ăn đường phố di động Lào này với giá khá rẻ. Khao jee thường được thưởng thức cho bữa sáng, cùng với một tách cà phê được lọc mạnh.
3. Khao Poon (mì cay)
Khao poon là một loại thực phẩm thoải mái ở Lào, bao gồm bún gạo trong một món súp cay. Súp hầm dài được làm từ thịt giã nhỏ (thịt gà, cá hoặc thịt lợn), nước mắm, tỏi, hẹ, ớt, lá chanh, riềng và lá tía tô.
Bạn cũng có được một loại toppings như bắp cải thái nhỏ, hẹ, hành lá, rau mùi, lá bạc hà và đậu chuỗi.
4. Lao Sausage
Sai gok (xúc xích Lào) là món khai vị phổ biến của người Lào thường được ăn kèm với xôi và rau quả tươi. Nó thường được làm với thịt lợn băm nhỏ và nêm với sả, riềng, lá kaffir, hẹ, rau mùi, ớt và nước mắm. Bạn có thể tìm thấy sai gok treo trên móc tại các chợ địa phương và quầy hàng bên đường ở Lào.
5. Larb (Salad thịt băm)
Larb hay laap được coi là món ăn quốc gia của Lào – món salad làm từ thịt này có hương vị của lá bạc hà, ớt, nước mắm và nước cốt chanh, mang lại hương vị nồng nàn. Hầu hết các nhà hàng sử dụng thịt lợn hoặc thịt gà để làm ấu trùng, nhưng bạn cũng có thể thưởng thức nó với thịt bò băm, vịt hoặc cá.
Giống như hầu hết các món ăn Lào, người dân địa phương thưởng thức món salad này với xôi và các món ăn phụ khác nhau.
6. Laos Pho
Phở Lào là một món phở bò có nguồn gốc từ Việt Nam, nhưng cũng thường được người dân địa phương ăn. Nó có lát mỏng thịt bò, thịt lợn, hoặc thịt gà, lòng bò, thịt viên và đôi khi nội tạng (tim, gan, hoặc lưỡi). Bạn có thể chọn để có nó với mì gạo phẳng hoặc mỏng. Lào phở thường đứng đầu với dầu ớt, nước cốt chanh, giá đỗ, đậu dài, húng quế thánh, và ngò.
7. Hoặc Lam (Lào Stew)
Hoặc lam là một món hầm cay cay và dày của Lào có nguồn gốc từ Luông Pha Băng. Nó chứa đậu, cà tím, sả, húng quế, ớt, nấm mộc nhĩ, rau mùi và hành lá.
Một thành phần độc đáo trong món hầm này là mai sa kaan một loại nho được trồng tại địa phương không chính xác có thể ăn được (bạn phải nhai và nhổ nó ra). Hoặc lam cũng chứa thịt trâu khô, thịt bò, hoặc thịt gà.
8. Sien Savanh (Lao Beef Jerky)
Sien savanh thường được ăn như một món ăn nhẹ cùng với Bialao (lager do Công ty Bia Lào sản xuất). Tương tự như thịt bò khô, nó được làm bằng bít tết sườn bò (một số nơi sử dụng thịt trâu nước) được ướp trong hỗn hợp tỏi, nước mắm, gừng, hạt vừng, đường, muối và hạt tiêu đen.
Các dải sau đó được để dưới ánh mặt trời cho đến khi khô. Người dân địa phương thưởng thức sien savanh bằng cách nướng trên bếp than để có hương vị khói, trước khi ăn với xôi hoặc jaew maak len (một loại tương ớt dựa trên cà chua).
9. Som Moo (Xúc xích thịt lợn được bảo quản)
Som moo được làm từ thịt lợn sống xắt nhỏ, lên men – bao gồm cả thịt và da – được bọc trong lá xanh. Ớt tươi thường được trộn vào thịt, làm tăng thêm vị cay cho món khai vị Lào này.
Bạn có thể thưởng thức nó sống hoặc nướng, mặc dù phiên bản thô được ưa thích hơn giữa những người dân địa phương. Thưởng thức som moo với lá bắp cải sống và đậu chuỗi, giúp giảm độ chua.
10. Tam Mak Hoong (Salad đu đủ)
Tam mak hoong tương tự như som tam của Thái Lan – vụn, đu đủ chưa chín, tỏi, cà chua, ớt, đường cọ, nước cốt chanh và nước mắm được giã trong cối. Không giống như som tam, món gỏi đu đủ Lào này bỏ qua đậu phộng nhưng có nước mắm lên men và mắm tôm làm nguyên liệu chính.
Nó có thể cay đối với một số người, nhưng bạn có thể giảm bớt độ cay bằng cách thưởng thức tam mak hoong với xôi.
Tại sao lạp sườn Đài Loan kẹp xôi là món ăn đường phố Đài Loan tuyệt vời nhất?
Đài Loan không chỉ có di sản văn hóa tinh thần phong phú mà còn nổi tiếng với những món ăn đường phố tuyệt vời như đậu phụ bốc mùi, xôi xúc xích Đài Loan, trứng tráng hàu, v.v.
Nếu bạn muốn thưởng thức nhiều món ăn đường phố Đài Loan, hãy đến chợ đêm Đài Loan! Hầu hết các chợ đêm ở Đài Loan đều được tổ chức trên vỉa hè hoặc đường phố. Vào ban ngày, xe cộ và người đi bộ qua lại. Vào ban đêm, con phố biến thành một khu chợ đêm sôi động. Bạn có thể thưởng thức đồ ăn nhẹ khi đi dạo và đồng thời nhìn những món ăn khác một cách ghen tị khi bạn quá nhồi nhét để cắn thêm miếng nữa.
Nếu bạn là một tín đồ ăn uống, việc yêu cầu bạn chọn một món trong số hàng chục nghìn món ăn đường phố của địa phương chắc chắn sẽ khiến bạn bị giằng xé giữa vô số lựa chọn ngon lành. Tuy nhiên, ở Đài Loan, có một món ăn đường phố chợ đêm Đài Loan cực kỳ ngon mà bạn không thể bỏ qua: Lạp sườn Đài Loan kẹp xôi – Xúc xích Đài Loan với xôi – một nét ẩm thực cổ điển với nhiều tầng lớp phong phú khiến bạn thích thú.
Mục lục
Xôi Lạp xưởng Đài Loan là gì?
Đúng như tên gọi, đó là món lạp xưởng Đài Loan bọc xôi.
Nhưng khía cạnh thực sự của món ngon này thực sự là xúc xích Đài Loan được kẹp trong gạo nếp thái mỏng! Sự kết hợp “xúc xích kép” giống như hotdog này khiến mọi người thích mê.
Cách làm lạp xưởng Đài Loan với xôi
Món ăn ngon giống như hotdog của Đài Loan này bao gồm gạo nếp và xúc xích. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về nguyên liệu và phương pháp gói giò trong xôi nhé.
Lớp bên trong (lạp xưởng Đài Loan)
Cách làm xúc xích Đài Loan tương tự, nhưng không hoàn toàn giống với hầu hết các loại xúc xích trên thế giới. Xúc xích Đài Loan là một loại xúc xích của Trung Quốc hay còn gọi là LẠP XƯỞNG/LẠP SƯỜN. Việc nhồi xúc xích được thực hiện bằng cách băm các miếng thịt lợn lớn thành các miếng hình trụ nhỏ (khác với thịt băm nhỏ trên cơm thịt lợn om), sau đó trộn với thịt xay, rượu và các loại gia vị khác nhau trước khi đổ vào vỏ hình ống để tạo xúc xích hình ống. (Vỏ là chất liệu bao bọc nhân xúc xích và nó thường được làm từ ruột động vật tự nhiên hoặc sợi collagen nhân tạo)
Thịt băm của xúc xích Đài Loan không chứa xì dầu, bột ngọt, hay bất kỳ chất bảo quản nào. Do thời gian làm khô bằng không khí ngắn hơn nên xúc xích Đài Loan có vị ngon và ngọt hơn các loại xúc xích Trung Quốc khác. Mặc dù những chi tiết sản xuất như vậy có vẻ bình thường, nhưng chúng là chìa khóa quan trọng không thể thiếu để tạo nên những chiếc xúc xích ngon. Vì vậy, xúc xích Đài Loan là một thành phần vô cùng quan trọng trong món xúc xích Đài Loan với gạo nếp.
Lớp ngoài (Gạo nếp)
Người Đài Loan thích dùng loại gạo nếp hạt dài. Trong xúc xích Đài Loan với gạo nếp, xôi được làm bằng cách cho gạo trắng, mỡ lợn, hẹ tây, muối và hạt tiêu trắng vào gạo nếp. Sau khi đảo đều, gạo nếp đã trộn được đổ vào một cái âu hình ống và hấp trong vòng ít nhất 40 phút. Như vậy, xôi mới giữ được hình ống. Thời gian nấu thích hợp sẽ tạo nên hương vị tuyệt vời của gạo nếp.
Dễ dàng thưởng thức xúc xích Đài Loan với xôi
Xúc xích Đài Loan với xôi ngon nhất khi còn nóng! Nếp được nướng trên lửa cho đến khi lớp bên ngoài hơi giòn, sau đó được cắt ra để thêm xúc xích heo Đài Loan. Xúc xích được kẹp trong xôi như một chiếc xúc xích. Ngò và củ cải muối sau đó được cho lên trên để tăng hương vị. Tuy bề ngoài có vẻ hơi lạ nhưng đây là món ăn đường phố chợ đêm nổi tiếng ở Đài Loan. Xúc xích Đài Loan với gạo nếp ngon tuyệt vời, cắn miếng nào cũng đầy bất ngờ.
Đặc sản Hồ Ea Súp Thượng Tây Nguyên đại ngàn
Mục lục
Tổng quan về huyện EA SÚP tỉnh Đắk Lắk
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Ea Súp nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 70 km theo tỉnh lộ 1, có tọa độ địa lý: từ 1305′ – 13025′ vĩ độ bắc và từ 1070 01′ – 108003′ kinh độ đông. Huyện có địa giới hành chính: phía Đông giáp hai huyện Ea H’Leo, Cư M’gar, phía Tây giáp nước Cam Pu Chia, phía Nam giáp huyện Buôn Đôn, phía Bắc giáp huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
2. Địa hình
Địa hình khu vực tương đối bằng phẳng tạo nên vùng bán bình nguyên rộng lớn nằm kẹp giữa hai cao nguyên: Buôn Ma Thuột ở phía Đông, Đắk Nông – Đắk Min ở phía Nam.
Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 170-180m và nghiêng dần từ Đông sang Tây. Độ dốc trung bình từ 0-80.
Địa hình trên địa bàn có các dạng chính sau:
Bắc bán bình nguyên Ea Súp: địa hình bằng phẳng thoải dần về phía Tây bắc, tạo nên bán bình nguyên rộng, là toàn bộ lưu vực suối Ea Súp và sông Ea H’Leo.
Nam bán bình nguyên Ea Súp: vùng giáp Buôn Đôn địa hình bằng thoải, có núi xen kẽ tạo nên những bán bình nguyên hẹp, địa hình thấp dần theo hướng tây nam.
3. Thổ nhưỡng
Nhìn chung, đất đai trên địa bàn được hình thành trên đá phiến sét, đá cát kết, phù sa cổ và phù sa mới hình thành. Thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ đến trung bình, độ phì đất thấp nên thường bị nén chặt khi khô hạn và lầy thụt khi ngập nước, khả năng ngậm nước và giữ nước kém. Bên cạnh đó tình trạng kết vón đá ong đáy và đá lộ đầu xuất hiện khá nhiều.
Trên địa bàn có 4 nhóm đất ứng với 6 loại đất như sau:
Nhóm đất đỏ vàng:
Đất đỏ vàng trên đá granit (fa): diện tích 1.755 ha, chiếm 4,42 % tổng diện tích nhóm đất và 0,99% tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất vàng nhạt trên đá cát (fq): diện tích 22.247 ha, chiếm 56,07% diện tích nhóm đất đỏ vàng và 12,71% tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất đỏ vàng trên đá phiến sét (fs): đất được hình thành trên sản phẩm phong hóa của đá phiến sét. Diện tích 15.675 ha, chiếm 39,51% diện tích nhóm đất và 8,88% tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất phù sa: Đất phù sa ngoài suối (py): diện tích 8.328 ha, chiếm 4,76% tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất xám bạc màu:
Đất xám trên đá cát và granit (xa): đây là loại đất có diện tích lớn nhất 98.323 ha, chiếm 84,59% tổng diện tích nhóm đất, 53,19% tổng diện tích tự nhiên.
Đất xám trên phù sa cổ (x): diện tích 17.913 ha chiếm 15,41% trong nhóm đất và 10,24% tổng diện tích tự nhiên.
Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (E): diện tích 5.687 ha, chiếm 3,25% tổng diện tích tự nhiên.
4. Khí hậu
Huyện Ea Súp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có tiểu vùng khí hậu cá biệt, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới lục địa cao nguyên, nhiệt độ cao, nắng nóng. Tổng tích ôn vào loại nhất tây nguyên, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình:
Tổng lượng mưa trung bình 1.420 mm/năm. Đây là vùng có lượng mưa trên năm nhỏ so với các vùng khác trong tỉnh.
Mưa nhiều nhất từ tháng 8 đến tháng 10, lượng mưa tập trung đến 93,5% lượng mưa cả năm.
Lượng mưa mùa khô không đáng kể và thường bị khô hạn vào cuối mùa, tháng 1; 2 và 3 hầu như không có mưa.
Độ ẩm: Độ ẩm trung bình năm là 78,7%, độ ẩm trung bình cao nhất là 91,5%, độ ẩm trung bình thấp nhất là 46,4%.
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm là 240C, nhiệt độ trung bình cao nhất 33,30C, nhiệt độ trung bình thấp nhất 18,20C.
5. Thủy văn, sông suối
Nằm trên khu vực hạ lưu của hệ thống sông Sêrêpốk, Ea Súp có mạng lưới sông suối với mật độ dày, khoảng 0,4-0,6 km/ km2, nhưng hầu hết chỉ có nước vào mùa mưa.
Các sông suối trong vùng hầu hết được bắt nguồn từ phía Đông – Đông bắc, một số suối nhỏ từ Tây nam đổ vào hệ thống sông Sêrêpốk trên đất Cam Pu Chia (gồm sông Ea H’leo, suối Ea Súp, Ea Đrăng, Ea Mơ, Ya Lốp, Ea Khal…). Đây là nguồn cung cấp nước cho hoạt động sản suất nông nghiệp, nước sinh hoạt, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản.
Sự chênh lệch lưu lượng nước giữa mùa lũ và mùa cạn khá lớn do lượng mưa phân bố không đều trong năm, gây nên tình trạng thiếu nước vào mùa khô nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn của huyện.
6. Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Ea Súp còn là nơi có nguồn tài nguyên rừng tự nhiên khá phong phú, tổng diện tích đất rừng trên địa bàn là 124.664,93 ha, độ che phủ rừng đạt 73%. Trong đó, rừng tự nhiên sản xuất 103.843,76 ha, rừng tự nhiên phòng hộ 6.359,11 ha, rừng tự nhiên đặc dụng 14.462,06 ha.
Tài nguyên thực vật: Tổng trữ lượng gỗ ước tính trên 9 triệu m3, trên địa bàn có hai dạng rừng chính là:
Rừng nhiệt đới bán thường xanh: là loại rừng có diện tích nhỏ, phân bố chủ yếu ở ven sông Ea H’leo với các loài ưu thế như: bằng lăng, căm xe, dầu rái… một số loài quí hiếm thuộc gỗ nhóm I như cẩm lai, hương, cà te.
Rừng khộp chiếm phần lớn: đây là kiểu rừng thưa, cây lá rộng thường có một tầng duy nhất, cây ít cành và ít lá, tầng mặt cỏ vẫn phát triển được.
Tài nguyên động vật: Địa bàn huyện Ea Súp hiện nay có thể được coi như thủ phủ của đàn voi rừng. Theo phán đoán của các ngành chức năng, hiện đàn voi khu vực này còn trên 30 con, chia ra nhiều nhóm nhỏ, lẻ 3-5 con. Chúng tập trung chủ yếu tại vùng rừng núi các xã Ia Lốp, Ia Lơi, Ia Rvê sát biên giới Việt Nam – Cam Pu Chia.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Trước năm 1975 huyện thuộc quận Buôn Hồ, sau năm 1975 mang tên huyện Krông Búk.
Ngày 30-8-1977 huyện Krông Búk tách ra thành hai huyện Ea Súp và Krông Búk. Huyện Ea Súp khi đó gồm có 8 xã: Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea H’đinh, Ea Pốk, Ea Súp, Ea Tul, Krông Na, Quảng Phú.
Ngày 3-4-1980, thành lập hai xã mới lấy tên là xã Ea Tar và xã Cư M’gar.
Ngày 17-1-1984, chia xã Ea Súp thành 3 xã lấy tên là xã Ea Lê, Ea Bung, xã Ea Súp. Từ đó, huyện Ea Súp có 12 xã: Cư M’gar, Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea Bung, Ea H’đinh, Ea Lê, Ea Pốk, Ea Súp, Ea Tar, Ea Tul, Krông Na, Quảng Phú.
Ngày 23-1-1984, theo Nghị định số 15-HĐBT (nay là Chính phủ) chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Cư M’gar. Huyện Ea Súp còn lại 4 xã: Ea Bung, Ea Lê, Ea Súp, Krông Na.
Năm 1990, chia xã Ea Lê thành 2 xã lấy tên là xã Ea Lê và xã Ea Rốk.
Năm 1993, thành lập 2 xã Ea Huar và Ea Wer trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Krông Na.
Ngày 21-1-1995, chuyển 3 xã Cuôr Knia, Ea Nuôl, Ea Bar của thành phố Buôn Ma Thuột về huyện Ea Súp quản lý. Từ đó, huyện Ea Súp có 10 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Bung, Ea Huar, Ea Lê, Ea Nuôl, Ea Rốk, Ea Súp, Ea Wer, Krông Na.
Ngày 7-10-1995, chia xã Ea Bung thuộc huyện Ea Súp thành 2 xã: Ea Bung và Ya Tờ Mốt; cùng thời điểm này, tách 6 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Huar, Ea Nuôl, Ea Wer, Krông Na để thành lập huyện Buôn Đôn. Huyện Ea Súp còn lại 5 xã: Ea Bung, Ea Lê, Ea Rốk, Ea Súp, Ya Tờ Mốt.
Ngày 24-8-1998, thành lập xã Cư Kbang trên cơ sở 8.060 ha diện tích tự nhiên và 2.435 nhân khẩu của xã Ea Lê; chia xã Ea Súp thành thị trấn Ea Súp và xã Cư Mlan; thành lập xã Ia Lốp trên cơ sở 46.573 ha diện tích tự nhiên và 2.256 nhân khẩu của xã Ea Rốk.
Ngày 16-5-2006, thành lập xã Ia Jlơi trên cơ sở 27.320 ha diện tích tự nhiên và 5.789 nhân khẩu của xã Ia Lốp; thành lập xã Ia Rvê trên cơ sở 11.316 ha diện tích tự nhiên và 1.082 nhân khẩu của xã Ea Bung, 11.398 ha diện tích tự nhiên và 2.201 nhân khẩu của xã Ya Tờ Mốt.
Đặc điểm xã hội
Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất là con người Ea Súp gắn liền với lịch sử hình thành của Đắk Lắk , Tây Nguyên và dân tộc Viên Nam. Ea Súp là địa bàn cư trú lâu đời của đồng bào Gia Rai. Trước khi thực dân pháp đặt ách cai trị lên Tây Nguyên, đồng bào đang ở vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, chuyển sang giai đoạn xã hội có giai cấp. Tuy chưa có sự phân hóa giai cấp, nhưng trong buôn làng đã có sự phân hóa giàu nghèo, thể hiện qua việc sở hữu nhiều chiêng ché quý, nhiều trâu bò..
Thời kỳ chống Mỹ, làng buôn có sự xáo trộn, biến động do chính sách dồn dân, lập ấp chiến lược của Mỹ -ngụy, nhưng với truyền thống yêu quê hương, đất nước, đồng bào Ea Súp đã không ngừng đấu tranh chống lại âm mưu dồn dân của địch, bảo vệ buôn làng.
Năm 1975, khi đất nước thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện chính sách định canh định cư của đảng và nhà nước, đồng bào các dân tộc Gia Rai ở Ea Súp đã chấp dứt hình thức du canh du cư, hạn chế đốt rừng làm rẫy. Phần lớn đồng bào đã biết áp dụng khoa học – kỹ thuật trong sản xuất, đã trồng điều , bắp lai, cây công nghiệp ngắn ngày với năng suất cao, đặc biệt là biết trồng lúa nước 02 vụ/ năm…đời sống của đồng bào được thay đổi cả vật chất lẫn tinh thần.
Xưa kia đồng bào Gia Rai sinh sống quần cư theo từng bộ lac, các buôn tuy cách nhau một khoảng không gian nhất định, nhưng tạo thành một mảng cư trú liên tục trên một vùng địa lý kéo dài. Là cư dân bản địa lâu đời sinh sống trong môi trường đất đai phì nhiêu, nhiều sản vật, đời sống đời sống của dồng bào khá ổn địnhtrong hình thái tự túc, tự cấp. Nghề chính của đồng bào là làm nương rẫy. Rừng chính là nguồn cung cấp đất cho cộng đồng, chủ yếu là rẫy, được canh tác theo phương theo phương thức du canh hay luân canh, theo lối đốt phá , chọc, tỉa cổ truyền, kỹ thuật canh tác của dồng bào còn thô sơ, dựa vào thiên nhiên, phát rừng làm rẫy vài ba vụ rồi bỏ hoang đi phát chỗ mới 4-5 năm mới trở về làm rẫy cũ, đồng chủ yếu trồng ngũ cốc 1 năm 1 vụ, năng suất thấp.
Chăn nuôi là kinh tế truyền thống, chăn nuôi gia súc với hình thức chăn dắt hoặc thả rông được duy trì trong các gia đình, trâu , bò, được coi là tài sản có giá trị của mỗi gia đình, chăn nuôi mang tính tự cấp, sử dụng vào việc lễ hội , cúng tế thần linh. Săn bắn, hái lượm, một hình thức kinh tế còng phổ biến, tuy chỉ giữ vị trí thứ yếu, nhưng vẫn vai trò nhất định trong đời sống sinh hoạt của người dân . Săn bắn được tiến hành theo mùa với nhiều phương thức khác nhau để bổ sung nguồn thực phẩm trong gia đình. Các nghề thủ công truyền thống như mộc, đan lát, dệt vải.. vẫn được duy trì trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những sản phẩm dệt thổ cẩm với những đường nét hoa văn trang trí độc đáo mang đạm nét văn hóa riêng của dân tộc Gia Rai.
Cũng như nơi khác ở Tây Nguyên, bên cạnh cư dân bản địa lâu đời là Gia Rai, huyện Ea Súp hiện nay có 29 dân tộc anh em khắp mọi miền của đất nước về sinh sống lập nghiệp như dân tộc Kinh, Tày ,Nùng, Thái Mường, H’ mông… theo dòng phát triển của lịch sử đã hình thành nên mối quan hệ khăng khít, giao lưu ảnh hưởng sâu sắc và thắm đượm đoàn kết giữa các dân tộc.
3. Truyền thống văn hóa
Ea Súp có nền văn hóa lâu đời độc đáo, mang đạm bản sắc văn hóa trên Cao nguyên. Với những sắc thái riêng biệt của từng dân tộc, trong quá trình phát triển giao lưu, văn hóa các dân tộc ở Ea Súp được hòa nhập với văn hóa các dân tộc tạo nên sự phong phú và đa dạng của văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk.
Văn hóa các dân tộc ở Ea Súp thể hiện rõ nét qua văn hóa xã hội, văn hóa vật chất. Đặc trưng của văn hóa xã hội là tổ chức làng mạc, cộng đồng cư dân sống quần tụ, khép kín. Trong từng buôn, làng, quan hệ xã hội với hình thức tự quản tồn tại những luật tục, hàng trăm điều và tuân thủ sự điều khiển của Già làng.
Văn hóa vật chất thể hiện qua kiến trúc nhà sàn truyền thống, kiến trúc và điêu khắc là nét văn hóa tiêu biểu của người Gia Rai, với nghệ thuật tạo hình độc đáo, đã thể hiện những đường nét khắc họa bên trong hoặc cầu thang của ngôi nhà. Nghệ thuật điêu khắc còn thể hiện qua hình tượng nhà mồ, chim, thú, cọc đâm trâu.. thể hiện quan niệm tâm linh của người Gia Rai đối với các vị thần linh. Văn hóa của các dân tộc còn thể hiện qua sản phẩm dệt thổ cẩm, như những bộ trang phục, váy, áo, tấm choàng truyền thống. Trang phục của người đàn bà Gia Rai là váy áo thổ cẩm, đàn ông đóng khố và khoác tấm áo choàng trong những ngày lễ hội.
Đời sống tinh thần của đồng bào Gia Rai rất phong phú đa dạng. Đồng bào thờ phụng nhiều thần linh “Yàng” gần gũi xung quanh mình như là: Yang Chư, Yang pui, Yang Ea. Đồng bào quan niệm mọi vật đều có linh hồn, đều có sức sống. Văn hóa nghệ thuật dân gian với các loại hình truyện cổ, kể khan, trường ca, ca dao, tục ngữ, âm nhạc, cồng chiêng, hát múa dân gian, đã trở thành món ăn tinh thần trong đời sống của đồng bào. Lễ hội tế lễ gắn liền quan niệm của người dân về cuộc sống, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt cuộc sống bình yên, ấm no.
Trong công cuộc đổi mới, với sự phát triển của xã hội, đời sống văn hóa của đồng bào các buôn làng Ea Súp từng bước phát triển. Nhiều những phong tục tập quán lạc hậu được xóa bỏ. Đồng bào tích cực tham gia vào hoạt động văn hóa, xã hội theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, thực hiện vận động xây dựng Buôn làng văn hóa, tạo nên một cộng đồng văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa lưu giữ văn hóa truyền thống, vừa từng bước giao lưu hòa nhập và phát triển văn hóa hiện đại.
Địa điểm du lịch Easup Tây Nguyên
1. Tháp Chăm Yang Prong –
Di tích Tháp Chăm độc đáo và duy nhất ở Tây Nguyên
Toàn tỉnh Đắk Lắk hiện có 38 di tích đã được xếp hạng, trong đó tháp Yang Prong là di tích đầu tiên và duy nhất được xếp hạng là di tích kiến trúc quốc gia.
Tháp Chăm Yang Prong thuộc xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về phía Tây, còn có tên khác là tháp Chàm Rừng Xanh. Đây là một trong những tháp Chàm duy nhất ở Tây Nguyên được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII để thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga (vị thần vĩ đại), cầu mong sự nảy nở của giống nòi và ấm no hạnh phúc.
Tọa lạc tại thôn 5, xã Ea Rôk, huyện Ea Súp, tháp Yang Prong được xem là tháp Chăm duy nhất tại Tây Nguyên, là minh chứng cho sự hiện diện của người Chăm trên mảnh đất cao nguyên này. Tháp có nhiều tên gọi khác nhau, tuy nhiên Yang Prong (nghĩa là “thần lớn”, dựa theo truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian của người Êđê, Gia Rai, M’nông) là tên gọi được sử dụng thông dụng nhất bởi đồng bào dân tộc tại chỗ, dân địa phương nơi đây và được sử dụng chính thức cho đến nay.
Trên cơ sở các nghiên cứu về văn khắc, lịch sử, kiến trúc, các công trình nghiên cứu về bi ký, của các nhà khoa học đã nhận định chủ nhân của tháp Yang Prong là người Chăm được cho là di cư lên Tây Nguyên.Tương truyền, tháp là ngôi mộ của người đứng đầu làng Chăm xưa kia. Tháp được xây dựng dưới thời vua Chăm Jaya Shinhavarman III (tức Chế Mân) vào cuối thế kỷ XIII nhằm củng cố sức mạnh trị vì của mình, đồng thời cầu mong cho người Chăm sinh sôi, nảy nở ở vùng Cao nguyên này. Tháp Yang Prong được xây dựng ở độ cao trên 200m, chế ngự một vùng phong cảnh thiên nhiên rộng rãi, bằng phẳng, nằm trong khu rừng thưa, với quần thể thực vật thường xanh quanh năm bên cạnh sông Ea Hleo. Tháp là một khối kiến trúc xây bằng gạch nung đỏ, phía trên mở rộng và thon vút hình búp hoa. Tháp cao 9m (không kể chóp), từ nền tháp xuống mặt đất là 0,08m. Trên các mặt tường ngoài của tháp người ta làm các cửa giả để trang trí. Mỗi một mặt tường là 3 cửa giả. Giữa các lớp gạch không thấy những mạch vữa liên kết, trên mái chồng chất những lớp gạch xếp nhỏ dần từ dưới lên trên. Mặt bằng của tháp hình vuông, mỗi cạnh 5m, có một cửa ra vào duy nhất mở về hướng đông. Cửa phía trong cấu tạo vòm cuốn, càng lên cao lòng tháp càng hẹp dần, phủ ngoài gạch có một lớp láng (giống như lớp vữa).
Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII dưới thời Vua Sinhavarman III (Chế Mân), thờ thần Shiva dưới dạng Mukhalinga, cầu mong sự nảy nở của giống nòi, và ấm no hạnh phúc. ThápYang Prong được phát hiện vào quãng những năm 1904-1911 bởi một nhà dân tộc học người Pháp tên Henri Maitre. Nhà khoa học này đã khảo tả về công trình này trong cuốn Les jungles Moi (Rừng Mọi) xuất bản tại Paris năm 1912.
Tháp Yang Prong mang trên mình nhiều giá trị lịch sử, khoa học – nghệ thuật và văn hoá: Yang Prong là một ngôi tháp cổ của người Chăm xưa kia, ra đời vào cuối thế kỷ XIII – có thể nói là một thời kỳ phát triển cực thịnh của người Chăm trên đất Tây Nguyên. Giá trị của tháp còn thể hiện ở chỗ, nó là dấu vết vật chất minh chứng cho lịch sử về sự có mặt của người Chăm ở Đắk Lắk trong quá khứ. Mặt khác, tháp Yang Prong có mặt tại vùng rừng này là một nét độc đáo hiếm thấy. Cùng với sự duyên dáng, đẹp đẽ của cảnh quan nơi đây đã tạo nên vẻ thơ mộng, cổ kính cho cả một vùng bán bình nguyên này. Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prong mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí, cổ kính thâm nghiêm tồn tại vững bền cùng thời gian.
Nhằm bảo tồn và khắc phục sự xuống cấp của tháp bởi tác nhân thời gian và môi trường, năm 2013 tỉnh Đắk Lắk đã tiến hành đầu tư trùng tu, tôn tạo từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa với tổng kinh phí trên 10 tỉ đồng. Việc trùng tu tháp được tiến hành với nhiều hạng mục như trùng tu, gia cố khung thép khu vực chung quanh tháp chính, xây dựng tường rào bao quanh, láng nền bằng ximăng với tổng diện tích 1.200m2, trồng cỏ, đặt ghế đá trong khuôn viên khu vực tháp… Nỗ lực trên của chính quyền địa phương đã góp phần giữ gìn được nét nguyên sơ, cổ kính của tháp nói riêng và khu vực di tích nói chung. Tuy nhiên, từ đó cho đến nay việc “biết đến” tháp Yang Prong trong nhận thức của khách du lịch, thậm chí là người dân Đắk Lắk vẫn còn rất ít.
Tháp Yang Prong là một khối kiến trúc bằng gạch nung đỏ trên nền cao bằng đá xanh. Tháp có chiều cao 9m, đáy vuông mỗi cạnh dài 5m, mỗi mặt tường ngoài là 3 cửa giả, một cửa duy nhất mở về hướng Ðông, nơi ngự trị của các vị thần linh. Phía trên mở rộng và thon vút hình tháp bút, khác biệt với kiến trúc của các tháp Chàm khác ở Trung Bộ. Trong thời gian chiến tranh, tháp bị những kẻ đi tìm vàng đánh mìn nên đã hư hỏng nhiều. Tháp cũng không được xây dựng trên những ngọn đồi cao, núi thấp không bóng cây như những ngọn tháp chàm khác mà lại nằm chìm lấp dưới những tán cổ thụ của rừng già Ea Súp và bên dòng sông Ea H’leo hiền hòa.
Yang Prông có nghĩa là tháp thờ Thần Lớn, vị thần chuyên cai quản mùa màng theo quan niệm của người Chăm cổ. Đây là một công trình còn dang dở, bởi lẽ khi xây dựng tháp, đồng bào Chăm không bao giờ xây một cái mà thường là một quần thể. Hiện nay, tháp đã được công nhận là Di sản văn hóa cần được bảo tồn. Tuy đã được tôn tạo nhưng nhìn chung tháp vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm của nó. Chung quanh tháp được bao quanh bởi những cây gỗ nhiều năm tuổi, khá rậm rạp, đây cũng là minh chứng cho nỗ lực bảo vệ của chính quyền địa phương. Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prông mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí, cổ kính thâm nghiêm tồn tại vững bền cùng thời gian. Ngày 3 – 8 – 1991, tháp đã được công nhận là Di tích văn hoá kiến trúc cấp Quốc gia.
Cùng với Hồ Ea Súp thượng và Ea Súp hạ, tháp Yang Prong đã làm phong phú thêm các điểm đến cho du lịch Ea Súp. Tuy nhiên do tháp ở khá xa thành phố Buôn Ma Thuột (trên 90 km), đường vào lại rất khó khăn nên tháp còn quá xa lạ với nhiều người ở Buôn Ma Thuột, ngay cả người Ban mê vốn mang tiếng là kẻ đi nhiều cũng mới chỉ vào đây một lần từ những năm cuối của thế kỷ 20, lúc đó ngọn tháp còn rất hoang sơ giữa tán rừng rậm và đang bị trùng tu.
Hi vọng một ngày nào đó, nơi này sẽ được nhiều người biết đến hơn, đó là khi tour con đường xanh Tây Nguyên trở thành hiện thực. Khi du lịch Ea Súp đã kết nối được với 2 điểm du lịch đông khách và hấp dẫn nhất ở Đắk Lắk là Buôn Ma Thuột và nhất là Bản Đôn với các điểm tham quan nổi tiếng như: các bến nước tại buôn Niêng, buôn Kó đung, Vườn Trohbư, cụm du lịch Bản Đôn.
Mặt khác, di tích tháp Chăm Yang Prong đang từng ngày, từng giờ đối mặt với những vấn đề mang tính nguy cấp như: Tình trạng sạt lở, xuống cấp của di tích; sự xâm thực tín ngưỡng tại Yang Prong (tình trạng người dân địa phương đặt các bát nhang thờ cúng, tổ chức các hoạt động tín ngưỡng trái phép tại di tích vẫn còn diễn ra). Nguyên nhân của những vấn đề trên là do vị trí của tháp Yang Prong cách khá xa so với các di tích, danh lam thắng cảnh khác của tỉnh (cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km). Mặt khác, đường vào di tích đã xuống cấp, đi lại khó khăn nên các công ty du lịch không “mặn mà” với việc đưa Yang Prong vào chương trình du lịch…
Nhằm đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di tích của tỉnh, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Quyết định số 2615/QĐ-UBND ngày 30.10.2020 về phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó tháp Chăm Yang Prong đã được tỉnh chú trọng và quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích trong giai đoạn 2026 – 2030. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu trên, cũng như phát huy được “sức sống” của tháp Chăm duy nhất tại Tây Nguyên đòi hỏi cần có sự vào cuộc của cả cộng đồng, đặc biệt là việc phát huy tối đa vai trò quản lý nhà nước của chính quyền các cấp gắn với sự chung tay của người dân.
2. Hồ Thượng Ea Súp
https://www.youtube.com/watch?v=CRv30DNJq-Q&list=PLlrPqsSEltssuXwJnK7KkT67bilMdNR1yhttps://www.youtube.com/watch?v=Ch5kSXjCQ6I
Ea Súp Thượng là hồ nước ngọt nhân tạo lớn nhất tỉnh Đăk Lăk và lớn thứ hai ở Tây nguyên (sau Hồ Ayun Hạ – Gia Lai).
Hồ thuộc địa bàn xã Chư Ma Lanh, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, cách thị trấn Ea Súp khoảng chừng 7 km về hướng Tây. Hồ hình thành do việc chặn dòng suối Ea Súp, được đưa vào sử dụng từ năm 2004 với diện tích mặt nước gần 1.500 ha (lớn gấp 3 Hồ Lắk), dung lượng nước chứa có thể lên đến 146 triệu mét khối. Theo thiết kế, công trình giải quyết nước tưới cho 9.455 ha lúa cùng với diện tích các loại cây trồng khác của 7 xã: Ea Lê, Ea Bung, Ea Đrông, Ea Rốc, Chư Ma Lanh, Ea Lốp, Ea Tmốt và thị trấn Ea Súp.
Khí hậu
Khí hậu vùng này thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa của khu vực Tây Nguyên, mỗi năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Do có mặt nước rộng lớn nên khí hậu ở đây mát mẻ rất nhiều so với các vùng xung quanh dù vũng có đặc trưng của vùng rừng khộp chiếm ưu thế.
Du lịch
Hồ Ea Súp Thượng không chỉ có giá trị to lớn về mặt thủy lợi, thủy sản mà còn hấp dẫn về du lịch. Lợi thế của hồ Ea Súp Thượng là mặt nước lớn, tương đối ổn định vào mùa khô, có bán đảo rộng lớn có rừng tự nhiên, xung quanh hồ cũng xanh ngắt cây rừng. Đứng trên đập chính của hồ có thể thấy những cánh rừng tự nhiên rộng lớn với hệ động thực vật phong phú. Bản thân việc tham quan một công trình thủy lợi lớn thứ nhì Tây Nguyên cũng là sức hấp dẫn của một sản phẩm du lịch.
Đây là một phần không thể thiếu của dự án du lịch “Con đường xanh Tây Nguyên”, tour du lịch được đánh giá là cực kì hấp dẫn, với điểm bắt đầu là hành phố Đà Nẵng qua Kon Tum, Gia Lai và theo đường 681 để đến Đắk Lắk qua thị trấn Ea Súp với điểm dừng chính là hồ Ea Súp Thượng.
Đặc sản tỉnh Hòa Bình
Mục lục
- 1 Thịt trâu nấu lá lồm
- 2 Cách chế biến thịt trâu nấu lá lồm chuẩn vị Tây Bắc
- 3 Cách thưởng thức đặc sản chuẩn chỉ
- 4 Tác dụng bất ngờ của thịt trâu lá lồm
- 5 Lợn mán thui luộc
- 6 Thịt lợn muối chua
- 7 Món cá nướng đồ
- 8 Cá suối Hòa Bình
- 9 Cá dầm xanh sông Đà
- 10 Các món côn trùng
- 11 Xôi nếp nương Mai Châu
- 12 Canh pịa
- 13 Canh loóng
- 14 Xôi trứng kiến
- 15 Rau rừng đồ
- 16 Cải mèo
- 17 Rượu cần
- 18 Cơm lam
- 19 Cam Cao Phong
- 20 Chả cuốn lá bưởi
Thịt trâu nấu lá lồm
Lá lồm còn được biết đến với cái tên lá giang, lá thồm lồm, lá chua mon, lá giang chua. Đây là loại lá rừng có vị chua, thanh mát, mọc tự nhiên trong khu vực Tây Bắc. Thay vì lá me ở vùng đồng bằng, đây là phương thức tạo vị chua phổ biến ở Tây Bắc.
Cách chế biến thịt trâu nấu lá lồm chuẩn vị Tây Bắc
Trước khi nấu chung, một số người còn thui thịt cho cho dậy mùi, săn bì. Thịt cần được cạo sạch lông, rửa sạch lại lần nữa. Sau đó, người chế biến sẽ thái vừa miệng ăn để chỉ một gắp ăn được cả lá cả thịt. Cắt ngang thớ đảm bảo thịt không bị dai, đồng thời cũng rất đẹp mắt. Cái chất thịt dễ tiết ra cho ngọt canh, đồng thời gia vị cũng ngấm vào đậm, đều hơn.
Tỏi băm nhuyễn, nước mắm, bột canh, mắc khén được cho thêm và đảo đều cho ngấm đều gia vị. Sau khi ướp khoảng 25-30 phút, người làm bắc nồi rồi đổ lượng dầu vừa phải rồi đảo đều tay. Lửa chỉ để to vừa để tránh thịt quá dai. Trong thời gian này, người nấu có thể điều chỉnh thêm gia vị cho món ăn thêm đậm đà.
Cách thưởng thức đặc sản chuẩn chỉ
Khi chín tới, thịt trâu nhừ mềm, bớt đi mùi gây với các nguyên liệu đã thấm đều. Nước nấu lúc này hơi sáng. Đặc biệt, cái vị đặc trưng của thịt trâu với lá nồm chua tạo nên phong vị đậm đà khó có thể tìm thấy dưới xuôi.
Món thịt trâu nấu ngon nhất khi ăn nóng. Bạn có thể dùng chung với cơm, bún, bánh mì hoặc nhâm nhi như món nhậu. Ngoài ra, thịt trâu nấu lá nồm thường được người Mường bày chung với cỗ lá. Chỉ một bát này cũng đủ để anh chị em uống hết chén này tới chén khác.
Tác dụng bất ngờ của thịt trâu lá lồm
Không chỉ là món ăn ngon, thịt trâu nấu lá lồm rất bổ dưỡng. Chất saponin trong lá có tác dụng tăng cường sức đề kháng cơ thể, đau dạ dày, đau nhức xương khớp, hỗ trợ điều trị bệnh ung thư.
Với lượng vitamin B6, protein, sắt cao, thịt trâu củng cố hệ miễn dịch, cung cấp năng lượng cho các tế bào, đặc biệt khi hoạt động ở cường độ cao. Hàm lượng đạm rất cao nhưng cholesterol lại rất thấp, hệ số hấp thu cao.
Đồng thời, thịt cũng chứa nhiều magie, kẽm, kali tổng hợp protein tăng cường phát triển cơ bắp. Loại thịt này cũng chứa rất nhiều sắt, bổ sung máu cho cơ thể.
Cho tới khi thịt tái chín, săn lại, nước tiếp tục được đổ khoảng nửa nồi. Nếu thích ăn khô hoặc nhiều nước, người nấu hoàn toàn có thể gia giảm tùy thích. Ban đầu, người ta để lửa to tới rồi văn nhỏ lại sau khi sôi. Gia vị tiếp tục được điều chỉnh tới khi vừa miệng,
Lá lồm được đem vò hoặc cắt nhỏ, cho vào nồi hầm sau khi trâu mềm nhừ. Tùy khẩu vị, khu vực, gạo tấm được cho thêm vào hay không. Khi nở bung, gạo sẽ tạo độ sệt nhẹ như cháo loãng khá thú vị. [ nguồn: vivu.net ]
Lợn mán thui luộc
Bên cạnh, cách chế biến cầu kì, thì việc lựa chọn loại thịt lợn làm món ăn này cũng rất quan trọng. Thịt được chọn phải là giống lợn mán khỏe mạnh, được nuôi theo phương thức gần gũi thiên nhiên, không chuồng trại, tự kiếm thức ăn từ các loại rau rừng nên thịt săn chắc, ít mỡ nhiều nạc, giòn mà thơm ngọt.
Lợn mán sau khi cắt tiết, người Mường không cạo lông ngay mà đem thui vàng, thui đến đâu cạo lông đến đó để giữ cho hương vị thịt trọn vẹn nhất và cũng để lớp da lợn có màu vàng ươm như mật ong rất đẹp mắt. Sau khi thui kỹ, thịt lợn mán được rửa sạch và xẻ thành từng tảng đem luộc chín trên bếp than hồng.
Kỹ thuật luộc thịt cũng lắm công phu, lợn mán phải được luộc trên bếp củi rừng, và canh sao cho ngọn lửa luôn đều, chỉ cần hơi to hoặc nhỏ lửa một chút cũng có thể làm ảnh hưởng đến món ăn. Khi mùi thơm tỏa ra cũng là lúc món lợn mán thui luộc chín tới. Nhanh chóng vớt thịt ra đĩa rồi xắt thành những miếng mỏng vừa ăn. Độc đáo ở chỗ, lợn mán luộc được người Mường bày trí trên là chuối rừng tạo nét riêng độc đáo của món ăn nơi đây..
Bên ngoài miếng thịt có màu vàng ong do bị lửa thui, còn bên trong miếng thịt chín tới có màu hồng nhạt, mềm, da giòn, ngọt thịt và tỏa mùi thơm quyến rũ. Những miếng thịt lợn mán nóng hổi được chấm với muối hạt dổi nướng giã nhỏ, tạo nên hương vị đậm đà của muối rang, vị ngọt thanh của thịt lợn mán và vị cay cay của hạt dổi. Chỉ mộc mạc vậy thôi mà món lợn mán thui luộc đã chinh phục được cả những thực khách khó tính nhất.
Thịt lợn mán thui luộc đã trở thành món ăn truyền thống của đồng bào nơi đây. Họ dùng món thịt lợn mán thui luộc trong những ngày lễ tết, cưới hỏi, hay những lần khách quý ghé thăm để cầu may mắn, sức khỏe và an lành.
Thịt lợn muối chua
Thịt lợn muối chua Thung Nhai của người Mường là một trong những đặc sản nức tiếng Hoà Bình khiến ai ăn một lần cũng đều phải mê mẩn.
Thịt lợn muối chua Thung Nhai là món ăn mang trọn thiên nhiên Hoà Bình đến với những người sành ăn. Với đặc điểm địa lý tại đây, heo thường được nuôi theo kiểu chăn thả nên thịt vô cùng chắc, ít mỡ nên muối chua cực ngon.
Thịt lợn muối chua có ngon thì phải dùng thịt của lợn choai, thả rông dài ngày. Thịt heo tầm đó mới vừa săn vừa chắc, ít mỡ, da giòn. Tốt nhất là nặng không quá 30kg, thịt thơm mà ít mỡ, ăn săn chắc, có vị ngọt tự nhiên, khác hẳn lợn dưới xuôi. Sau khi thái miếng được ướp với muối và riềng khô giã nhỏ, rồi trộn với rượu nếp cái và men lá rừng giã nhỏ sao cho thật ngấm. Một nguyên liệu không thể thiếu đó là thính được làm từ gạo rang rồi giã nhỏ.
Thịt sau khi đã bóp với thính và các gia vị thì đem đi ủ. Người Mường sẽ dùng ống tre ống nứa lót lót lá chuối bên trong để ủ thịt chua. Cứ một lớp thính trộn muối, lại đến một lớp thịt ướp nguyên liệu ở trên cho đến khi đầy bồ. Khâu cuối cùng là đem bồ thịt muối chua treo lên gác bếp củi đun ủ một đến hai tuần. Điểm khác biệt của món thịt chua là ngoài vị chua lên men tự nhiên, vị ngọt của thịt lợn Mường còn có vị bùi ngậy của bì.
Thịt lợn muối chua Hòa Bình thường được ăn kèm với nhiều loại lá, mỗi loại đều có những tác dụng riêng tốt cho sức khỏe như trầu không, lá quế, lá mít. Chấm kèm là một chén tương ớt cay cay hoặc nước mắm tỏi ớt để tăng thêm hương vị.
Khi ăn bạn có thể cảm nhận rõ hương vị của thịt lợn lên men, những miếng thịt được bao bọc bởi màu vàng ươm của things gạo với mùi thơm rất riêng. Miếng thịt khi ăn có vị ngậy của bì, vị bùi của thịt, vị mặn của muối, vị thơm của thính gạo và vị chua của men rừng. Cuốn một miếng thịt vào lớp lá rừng đăng đắng ăn rất lạ miệng. Có thể vị rau rừng ban đầu khiến bạn chưa quen nhưng chỉ cần thêm miếng thứ hai, thứ ba lại muốn ăn thêm miếng nữa và nhớ mãi hương vị.
Thịt lợn muối chua thường được những người dân tộc Mường làm thường xuyên để dự trữ ăn trong gia đình. Người vùng cao thường không bảo quản trong tủ lạnh mà thường muối đồ ăn hoặc gác trên bếp nhưng có thể để được rất lâu.
Địa chỉ ăn món thịt lợn muối chua ở Hòa Bình:
- Khu du lịch hồ Hòa Bình – Cảng, Thung Nai, Cao Phong, Hòa Bình
Món cá nướng đồ
Vùng lòng hồ sông Đà chứa trong nó rất nhiều loại cá nước ngọt ngon lành. Nào là trắm, chép, lăng, nheo… có thể làm ra hàng chục món khác nhau. Trong đó, không thể không kể đến món cá nướng đồ.
Từng con cá tươi roi rói từ sông lên được thọc các que nhỏ, dài từ miệng xuống đuôi. Sau đó, cá còn được kẹp bằng tre ở ngoài để không bị gãy, rơi khi chín. Tiếp đó, từng xiên cá ấy được đưa lên bếp nướng thơm. Cá nướng dù đã ngon nhưng không ăn ngay mà được cho thêm muối, gói vào lá chuối rồi đồ lên. Khi cá được mang ra, mùi thơm rất đặc biệt, không chỉ là mùi của than ấm, mùi của thịt cá ngọt tươi mà còn thoang thoảng hương chuối, hương tre của rừng và đậm đà vị mặn mà đơn sơ của muối.
Địa chỉ ăn món cá nướng đồ ở Hòa Bình:
- Nhà hàng Đảo Xanh – Thung Nai, Cao Phong, Hòa Bình
- Thung Nai Restaurant – Thung Nai, Cao Phong, Hòa Bình
Cá suối Hòa Bình
Đến với Mai Châu Hòa Bình bạn được hòa mình vào thiên nhiên trong lành, khám phá cuộc sống thôn quê chất phác của đồng bào dân tộc Thái nơi đây, bên cạnh đó bạn còn được thưởng thức những đặc sản nơi đây nổi bật là Cá Suối Nướng.
Mai Châu là thung lũng của tỉnh Hòa Bình, cách Hà Nội 140 km về hướng Tây Bắc. Nếu bạn yêu thích sự bình yên, tĩnh lặng, mong được hòa mình với thiên nhiên, Mai Châu là điểm đến thích hợp. Nơi đây sẽ quyến rũ bạn bởi vẻ đẹp tinh khôi, mộc mạc của núi rừng, nương rẫy, đặc biệt là văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân tộc thiểu số.
Địa chỉ ăn món cá suối ở Hòa Bình:
Nhà hàng Hợp Thủy – Ẩm thực Mai Châu, Hòa Bình (Restaurant-Bar) – Tiểu khu 2 TT. Mai Châu. Gần cổng chào. Cách bản Lác 02 KM, Mai Châu, Hòa Bình
Xuân Màng đặc sản tô cá suối nhạp – Xóm, Nhạp 1, Đà Bắc, Hòa Bình
Cá dầm xanh sông Đà
Cá dầm xanh sông Đà là một loại cá quý, từng được mệnh danh “ngũ quý hà thủy”, một trong 5 loại cá tiến vua hiếm có khó tìm trong truyền thuyết. Có thể nói, thưởng thức cá dầm xanh sông Đà đã trở thành niềm đam mê của biết bao người. Tìm kiếm, săn lùng cá dầm xanh sông Đà, đắt mấy cũng mua là nhu cầu của những người “sành” ăn. Có người rình phục tận thượng nguồn để mua cá về đãi khách. Có người mải mê săn lùng cá do dân làng chài mới đánh bắt về không kể ngày đêm…
Cá dầm xanh thường sống ở tầng đáy của sông, nhất là các con sông, con suối của vùng núi Tây Bắc. Cá có miệng dày và có vảy óng ánh màu ửng xanh. Thức ăn của cá dầm xanh là mùn bã hữu cơ, các loại tảo và động vật không xương sống cỡ nhỏ ở đáy sông. Hàng năm, đến mùa sinh sản, cá dầm xanh thường chui vào các hang động để đẻ trứng. Cá dầm xanh thuộc họ cá chép và di cư theo mùa. Cá có ruột rất dài, gấp 10 lần chiều dài của thân.
Điểm đặc biệt nữa ở cá dầm xanh là thịt thơm ngọt từ khi còn nhỏ như đầu ngón tay cho tới khi có trọng lượng trung bình 6 – 7kg, không giống như các loại cá khác là chỉ ngon khi trọng lượng lớn. Hơn nữa, thịt của cá dầm xanh còn chứa rất nhiều chất dinh dưỡng như đạm, protein, canxi, chất béo, chất khoáng, vitamin…
Không chỉ có thịt thơm ngọt, một số bộ phận của cá dầm xanh sông Đà như buồng trứng và xương cá cũng rất mềm và bùi ngầy ngậy, vừa có giá trị dinh dưỡng, vừa có giá trị chữa bệnh. Vì thế mà dù chế biến cá dầm xanh theo cách thức nào thì cá cũng đều rất ngon mà không có mùi tanh. Cá dầm xanh có thể chế biến thành nhiều món khác nhau như gỏi, lẩu, nướng, nấu cháo. Nhưng ngon bậc nhất vẫn là cá dầm xanh sông Đà hấp hoặc om.
Địa chỉ ăn món cá dầm xanh sông Đà ở Hòa Bình:
Nhà hàng Hợp Thủy – Ẩm thực Mai Châu, Hòa Bình (Restaurant-Bar) – Tiểu khu 2 TT. Mai Châu. Gần cổng chào. Cách bản Lác 02 KM, Mai Châu, Hòa Bình
Nhà sàn số 19 Hùng Mếch – Số 19 Bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa Bình
Các món côn trùng
Sâu, nhộng, cào cào, châu chấu… lúc nhúc được bày bán tràn lan ở các chợ quê huyện Lạc Sơn, Hòa Bình. Những loài côn trùng “ghê sợ” này lại trở thành món ăn đặc sản đãi khách không thể thiếu của người dân nơi đây.
Chợ bán các loại công trùng ở huyện Lạc Sơn được người dân bán theo chợ phiên Re, xã Ân Nghĩa hay chợ Lâm Hóa, xã Vũ Lâm và các ngày cách nhật trong tuần.
Chợ bán các loại công trùng ở huyện Lạc Sơn được người dân bán theo chợ phiên Re, xã Ân Nghĩa hay chợ Lâm Hóa, xã Vũ Lâm và các ngày cách nhật trong tuần.
Gọi là chợ côn trùng bởi người dân đến mua, bán tập nập các loài côn trùng như: Nhộng, trứng sâu ăn lá sắn, cào cào, châu chấu và nhiều loại côn trùng khác.
Các loài côn trùng này được bày bán công khai như những vật nuôi hay loại thực phẩm khác. Bởi người dân mua về nuôi làm thực phẩm hay mua về chế biến thành món ăn.
Các loại côn trùng được bày bán có giá không hề rẻ. Nhộng sâu ăn lá sắn có giá từ 80 – 100 nghìn đồng/kg, các loại nhỏ bán theo mớ. Đắt nhất là trứng của loài sâu này, có giá 500 nghìn đồng/100 gram.
Chợ mua bán côn trùng tấp nập từ sáng cho đến khi hết người mua. Hầu hết, các loài côn trùng này được người dân bắt ở các ruộng sắn, lúa rồi đem ra chợ bán cho những người có nhu cầu mua nuôi hay mua làm thức ăn.
Trứng của loại sâu ăn lá sắn có giá đắt rất hiếm. Mua 100 gram với giá 500 nghìn đồng về nở ra được rất nhiều nhộng, cho nhộng ăn lá sắn lớn lên bán với giá thực phẩm cho những người mua về làm thức ăn đặc sản.
Cào cào, châu chấu cũng được bày bán rất nhiều ở các chợ quê huyện Lạc Sơn. Nhiều người dân thường gọi đây là đặc sản “tôm bay” ăn rất ngon và là món ăn đãi khách được nhiều gia đình ưa chuộng.
Người bán, người mua các loại côn trùng này chủ yếu ở các xã như: Vũ Lâm, Tân Mỹ, Ân Nghĩa… huyện Lạc Sơn.
Nhờ nghề bán đặc sản côn trùng, nhiều hộ gia đình cũng có thu nhập cao. Với nhiều du khách thấy ghê sợ với những loài lúc nhúc này, nhưng với người dân nơi đây lại bình thường như món ăn dân dã khác.
Châu chấu, cào cào có giá từ 120 – 150 nghìn đồng/kg. Món đặc sản “tôm bay” này được nhiều người ưa thích vì khi rang lên ăn rất ngon, nhiều chất dinh dưỡng.
Theo nhiều lái buôn cào cào, châu chấu, những con côn trùng này được mua lại của những người dân đi săn vào ban đêm. Mỗi một kg khi thu gom mang ra chợ bán cũng lãi được từ 20 – 50 nghìn đồng.
Xôi nếp nương Mai Châu
Nếp xôi là món thay thế cơm phổ biến ở vùng cao Tây Bắc, Tiếng Thái gọi là “kháu càng nòi” – nghĩa là gạo dẻo thơm. Đến Mai Châu, thưởng thức được nếp xôi do chính phụ nữ Thái làm mới có thể cảm nhận hết vị ngon.
Xôi nếp nương Mai Châu hẳn là một món ăn truyền thống của người dân nơi đây, bởi xôi chỉ có thể thơm nhất và đậm vị nhất khi được nấu từ chính đôi bàn tay khéo léo của người đàn bà dân tộc Thái và bằng chính loại nếp nương được trồng trên những thửa ruộng bậc thang nối liền nhau ngay lưng chừng núi. Sau khi nếp được thu hoạch về, các hạt nếp nương sẽ được phơi khô cho thật ráo vỏ, khi đó các cô gái Thái sẽ dùng sức lực đôi bàn tay mình cho nếp vào cối lớn để tróc vỏ đi. Từng hạt nếp nương chắc mẩy sẽ được mang đi ngâm nhiều giờ liên tục để nếp thấm nước và nở ra. Sau khoảng thời gian ngâm đã đủ nước, các hạt nếp được cho vào đồ trong những khay gỗ để tạo nên một mùi hương đặc trưng của món xôi nếp nương Mai Châu.
Dưới ngọn lửa hồng của củi rừng Tây Bắc, xôi tỏa ra hương thơm đặc trưng của loại nếp nương Mai Châu, khi đó ta lấy xôi ra rổ, xới xôi thật đều tay một lúc rồi lại cho xôi vào chõ gỗ để đồ tiếp lần hai. Lúc này, công việc còn lại là chỉ chờ cho xôi chín. Đến khi đã cảm nhận được hương vị thơm phức lòng người của nếp nương từ chõ xôi là lúc xôi đã chín, nhìn hạt nếp ta thấy bóng mẩy, nở căng cho thấy xôi đã đạt được tiêu chuẩn về mặt hình thức. Còn về hương vị của xôi, khi nếm thử ngay từ đầu lưỡi ta cảm nhận thấy vị dẻo ngọt của hạt nếp thì khi đó xôi đã đạt đến độ chuẩn về chất lượng.
Khi thưởng thức xôi nếp nương Mai Châu ta thường ăn kèm cùng với một số món ăn khác như lợn rừng xiên nướng, gà đồi xé nhỏ nguyên con hoặc có thể chọn cho mình cá suối nướng mặn mòi, thơm lừng… Và ta chẳng thể không kể đến một vật liệu hay ăn kèm nhất và cũng đơn giản nhất đó chính là muối vừng, sự kết hợp này sẽ mang hương vị của món xôi nếp đạt đến mức thượng hạng.
Như vậy còn lưỡng lự gì nữa mà ta không thu xếp thời kì kẹ thăm Mai Châu – Hòa Bình để có thể tận hưởng một món ăn dân dã đặc sắc đẹp nơi đây – xôi nếp nương Mai Châu.
Địa chỉ ăn món xôi nếp nướng Mai Châu ở Hòa Bình:
Nhà hàng Hợp Thủy – Ẩm thực Mai Châu, Hòa Bình (Restaurant-Bar) – Tiểu khu 2 TT. Mai Châu. Gần cổng chào. Cách bản Lác 02 KM, Mai Châu, Hòa Bình
Đồng bào dân tộc – Bản Lác Mai Châu
Nhà sàn số 19 Hùng Mếch – Số 19 Bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa Bình
Canh pịa
Có lẽ trong những món ăn phong phú ở vùng cao Tây Bắc, món nậm pịa là khó ăn nhất nhưng cũng để lại ấn tượng nhất. Nậm pịa khiến những du khách phương xa nhớ mãi về một nền văn hóa ẩm thực rất độc đáo của đồng bào nơi đây.
Món canh pịa nghe có vẻ lạ này chính là món canh thường được người dân tộc Thái thực hiện trong các dịp Lễ Tết hay những bữa tiệc đãi khách.
“Pịa” chính là từ dân tộc dùng để chỉ chất dịch sền sệt trong ruột non của các loài động vật ăn cỏ như trâu, bò, dê. Người ta sẽ lấy phần pịa ngon nhất từ ruột non rồi cho thêm các loại gia vị đặc trưng như mắc khén, sả, ớt,…. Tiếp theo thêm nội tạng động vật như: lòng, dạ dày, gan, phổi rồi bày ra tô hoặc bát nhỏ nhân lúc còn nóng.
Món ăn có vị đắng và cực kỳ khó ngửi nhưng hậu vị lại rất ngọt và béo. Canh pịa tuy có vẻ ngoài cùng hương vị khó ăn và có phần “hơi ghê” khi ai chưa ăn quen nhưng lại có tác dụng bồi bổ sức khỏe và giải rượu vô cùng hữu hiệu đó!
Dưới đây là cách nấu nậm pịa đúng chuẩn vị Tây Bắc mà bạn có thể tham khảo nhé!
Chuẩn bị nguyên liệu
Nguyên liệu để tạo nên món đặc biệt này gồm tiết đông, sụn, đuôi, thịt, bạc nhạc, lục phủ ngũ tạng như lòng, dạ dày, gan và phần ruột non… và không thể thiếu một thứ nước sền sệt từ bên trong ruột non của con bò, dê, trâu, ngựa gọi nó là “pịa” đem ninh nhừ.
Người Thái chỉ lấy nậm pịa ở những con vật ăn cỏ như: trâu, bò, dê và cách lấy “pịa” cũng vô cùng tỉ mỉ, công phu.
Cách nấu nậm pịa
Đầu tiên người ta chọn một đoạn ruột non ngon để lấy pịa, dùng lạt thắt chặt hai đầu ngăn cách với ruột già và dạ dày, mục đích là để chất nhũ tương trong ruột non không pha tạp. Sau đó cắt khúc ngắn, trộn cùng lá rau thơm, bột mắc khén, rau mùi tàu, tỏi ớt… rồi băm nhỏ.
Việc chuẩn bị nguyên liệu cầu kỳ, còn công đoạn nấu món này cũng công phu không kém. Theo đó, nước dùng của nậm pịa là xương và lục phủ ngũ tạng được ninh nhừ trong nhiều giờ, cho đến khi đạt độ ngọt, béo ngậy, thì đổ pịa đã ướp gia vị vào, đun sôi khoảng một tiếng đồng hồ thành hỗn hợp sệt sệt, sóng sánh.
Món nậm pịa được đơm ra bát, màu bên ngoài là một sắc nâu sền sệt không bắt mắt, hương vị cũng khá khó ngửi. Nếu lần đầu tiên được thưởng thức nậm pịa chắc chắn nhiều người sẽ có cảm giác khó chịu, tuy nhiên, nếu cảm nhận kỹ thì món ăn này có hương vị rất cuốn hút.
Thưởng thức món nậm pịa
Món nậm pịa được đơm ra bát, màu bên ngoài là một sắc nâu sền sệt không bắt mắt, hương vị cũng khá khó ngửi. Nếu lần đầu tiên được thưởng thức nậm pịa chắc chắn nhiều người sẽ có cảm giác khó chịu, tuy nhiên, nếu cảm nhận kỹ thì món ăn này có hương vị rất cuốn hút.
Vị đắng, thơm đặc trưng của các loại rau rừng, vị béo ngậy của nội tạng, ngọt bùi của xương hòa quyện trọng vị cay nồng của hạt mắc khén sẽ khiến bạn nghiện từ lúc nào không biết.
Nậm pịa được ăn như món canh hoặc món nước chấm. Bạn có thể chấm thịt bò, dê với nậm pịa hoặc ăn món này với cơm và các loại rau thơm, kèm thêm chút rượu nồng. Dùng theo cách nào, nậm pịa cũng nổi bật được hương vị lạ, lan tỏa tới mọi giác quan. Đặc biệt, nậm pịa có tác dụng giải rượu rất tốt nên bạn yên tâm uống rượu, khó mà say.
Địa chỉ ăn món canh pịa ở Hòa Bình:
Nhà hàng Hợp Thủy – Ẩm thực Mai Châu, Hòa Bình (Restaurant-Bar) – Tiểu khu 2 TT. Mai Châu. Gần cổng chào. Cách bản Lác 02 KM, Mai Châu, Hòa Bình
Canh loóng
Lâu nay, trong các bữa tiệc nhân dịp hội ngộ, ngoài những món ăn hấp dẫn thực khách, thường hay có chén rượu đẩy đưa. Đôi khi, chén rượu đưa tình ấy lại làm người thưởng thức choáng váng. Bởi thế, trong bữa cơm của người Mường đất Hòa Bình từ bao đời nay luôn có món canh loóng, món canh thanh mát giải độc và giã rượu.
Khi tìm hiểu mới được biết việc lựa chọn nguyên liệu là cây chuối rừng cũng phải có kinh nghiệm. Bà con cho biết nếu là chọn các loại chuối vườn nhà sẽ khó có vị ngon vì thân chuối thường cứng và nhạt hơn so với cây chuối rừng. Ở núi rừng Tây Bắc vẫn còn nhiều loại chuối này, đặc biệt là những cây thân vừa tầm, để chế biến thành món canh loóng. Cây chuối mọc hoang dã trên rừng được người dân Mường đem về bóc bớt lớp vỏ già bên ngoài, sau đó dùng dao sắc thái từng lát chuối cho thật mỏng.
Chuối thái xong được đem bóp kỹ với muối trắng cho sạch lớp nhựa, cho hết vị chát và thơm tho rồi để thật ráo nước. Đợi đến khi nồi nước luộc thịt lợn sôi chừng nửa giờ đồng hồ liền bỏ chuối vào để làm canh loóng.
Có nơi, bà con lại sử dụng cánh gà thay cho thịt. Khi đó, người ta sẽ chặt lấy phần cánh gà đem xào qua với gia vị cho đậm đà rồi mới đổ nước vào đun, sau khi sôi đều mới tiếp tục bỏ những lát chuối vào nồi. Bát canh loóng khiêm nhường luôn được đặt ở góc mâm nhưng lại rất cần thiết mỗi khi vào bữa cơm.
Nếu như ở đồng bằng người ta thường nấu củ chuối với xương để hãm vị mỡ béo và giữ được vị ngọt thì món canh loóng không chỉ giữ được vị ngọt mà còn có tác dụng giải độc nếu thực khách ăn phải một vị nào đó không hợp đồng thời giúp cho bữa cơm thêm nhẹ nhàng mặc dù trên mâm cỗ lá chỉ vỏn vẹn có một món thịt.
Canh loóng ngoài vị ngon còn là một vị thuốc độc đáo được người dân Mường khéo léo đưa vào bữa cơm hằng ngày. Bởi vậy, dù mâm cỗ đầy ắp các món thịt hay đạm bạc đơn sơ với vài món ăn đơn giản thì canh loóng vẫn là món không thể thiếu, như một nét đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của đồng bào nơi đây.
Món canh loóng không cầu kỳ khi bạn tìm được một thân cây chuối rừng thật ngon, đem đến sự mới lạ cho bữa cơm gia đình vào những ngày nghỉ. [Trích Báo Thanh niên].
Địa chỉ ăn món canh loóng ở Hòa Bình: Làng ngói – Tỉnh lộ 317 TP Hoà Bình
Xôi trứng kiến
Xôi trứng kiến là 1 trong những đặc sản dân dã nổi tiếng của người dân tộc Tày.
Vào khoảng tháng 2, tháng 3 khi tiết trời vừa sang xuân cũng là lúc kiến rừng sinh sôi nảy nở nên đây chính là lúc mà người dân vào rừng để lấy trứng kiến về làm xôi. Xôi được nấu từ những hạt gạo nếp nương chất lượng và trứng kiến đen nên vô cùng thơm ngon, dẻo bùi và béo ngậy.
Nếp nương là thành phần được dùng để chế biến nhiều món ăn quen thuộc. Nhưng linh hồn của món xôi này là trứng kiến. Trứng kiến làm nên hương vị đặc biệt cho món ăn, khiến cho hương vị của nó không lẫn vào đâu được.
Làm trứng kiến lắm công phu. Những hạt trứng nhỏ li ti trong suốt được đãi nhẹ với nước ấm, để ráo rồi ướp với bột canh, hành khô và phi với mỡ cho tới lúc tỏa hương thơm lừng. Sau đó mới dùng một chiếc lá chuối ngự gói trứng kiến vào để mùi thơm của trứng lẫn với hương lá chuối, thử hỏi, trên đời còn thứ gì ngon hơn.
Trứng kiến sau khi ướp gia vị gói trong lá dong tươi nướng than để trứng chín mà không bị cháy. Khi xôi chín rắc trứng kiến vào rồi nhẹ tay đảo đều. Đĩa xôi đủ các màu tươi sáng như màu của vùng núi rừng Tây Bắc.
Xôi nếp vụ mới thơm dẻo lạ lùng, những hạt trứng kiến vỡ lép bép nho nhỏ trong miệng tỏa ra một mùi hương thơm dịu, cay cay, cứ dâng lên một niềm hưng phấn lạ kỳ, rồi chợt ùa đến vị ngọt bùi ngầy ngậy chưa từng được trải nghiệm.
Cách thưởng thức món xôi trứng kiến Mù Cang Chải đúng vị đó chính là dùng tay nhúm lấy một miếng xôi và cho vào miệng sẽ cảm nhận được những tiếng lép bép của trứng kiến không khỏi làm bạn xuýt xoa bởi vị ngon thơm của xôi nếp, vị bùi bùi, béo béo, ngậy ngậy của trứng kiến. Tất cả hòa quyện một cách hoàn hảo khiến bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên đấy.
Không phải trứng của loài kiến nào cũng có thể ăn được, bởi không phải loại trứng kiến nào cũng đủ to và đủ độ thơm bùi để chế biến món ăn. Người ta thường chọn trứng của loài kiến đen to làm tổ trên các cây cao trong rừng sâu.
Công cuộc lấy trứng kiến cũng rất gian nan và nguy hiểm. Để lấy trứng kiến ra khỏi tổ kiến, người dân tộc Tày dùng câu liêm hoặc que dài chọc thủng tổ kiến cho kiến rơi xuống, rồi đập vỡ tổ thành nhiều mảnh. Sau đó, cầm từng mảnh rũ nhẹ vào trong sàng rồi lọt xuống thúng. Trứng kiến và con kiến sẽ cùng rơi xuống thúng. Để tách kiến ra khỏi thúng, họ dùng các cành cây để cho kiến bám vào. Bao giờ kiến bám đầy cành thì họ sẽ vứt cành cây đi. [Trích Báo Đại Đoàn Kết]
Địa chỉ ăn món xôi trứng kiến ở Hòa Bình:
Nhà hàng Hợp Thủy – Ẩm thực Mai Châu, Hòa Bình (Restaurant-Bar) – Tiểu khu 2 TT. Mai Châu. Gần cổng chào. Cách bản Lác 02 KM, Mai Châu, Hòa Bình
Rau rừng đồ
Trong món rau đồ của người Mường, có rất nhiều loại khác nhau từ lá cây rừng đến các loại rau vườn nhà. Các loại rau phổ biến trong món ăn chính là rau cải mèo, lá lốt, rau đu đủ, lá hom,… Không chỉ có hương vị độc đáo, lạ miệng, món rau đồ còn là một món ăn rất tốt cho sức khoẻ.
Theo nhiều người dân ở đây, miền núi Hòa Bình trước đây vốn được biết tới như khu vực rừng núi hiểm trở, không có nhiều điều kiện về thuốc men. Do đó các bậc đi trước đã dùng các loại rau rừng như một vị thuốc chữa bệnh.
Theo y lý phương Đông, các loại rau rừng có vị đắng, chát vốn có tính nóng và có công dụng phòng chống cảm sốt rất hiệu quả, đồng thời chúng còn làm tăng sức đề kháng của cơ thể.
Cách chế biến món rau rừng đồ độc đáo và hấp dẫn:
Về cách chế biến, món ăn này được làm rất đơn giản. Các loại rau sau khi rửa sạch, được thái nhỏ, trộn đều thêm cùng hoa chuối thái mỏng, rồi đồ lên bằng chõ gỗ. Hoa chuối thái mỏng có tác dụng trung hoà, làm giảm bớt vị đắng và chua trong món ăn. Đến khi nước sôi thì người dân bắc chõ lên đồ. Thời gian chờ rau chín chỉ tầm khoảng 15 phút, đến khi bạn thấy mùi thơm của lá lốt. Món rau này chín bằng hơi nên không nát, khi ăn có độ ẩm vừa phải.
Thưởng thức món rau đồ:
Nếu như nhiều bạn lo lắng rằng vị chua chát và đắng sẽ rất khó ăn, thì hãy yên tâm bởi món ăn này có ăn kèm cùng món nước chấm vô cùng hấp dẫn. Chính là nước chấm ớt lòng cá.
Cách làm nước chấm ăn cùng món rau đồ:
Gia vị chấm được làm khá cầu kì với nguyên liệu chính là bộ lòng của cá lớn, thường từ 2kg trở lên. Bất kì loại cá nào cũng có thể lấy để chế biến gia vị chấm này nhưng ngon nhất phải kể đến bộ lòng cá chép, cá lăng lòng hồ Hoà Bình.
Lòng cá sau khi rửa sạch đem đi ướp với gừng, ớt, lá và quả móc mật. Chờ khoảng nửa tiếng để lòng cá ngấm sau đó cho vào xào. Bạn không cần phải cho thêm nước vì trong quá trình xào nước từ bộ lòng cá sẽ tiết ra nhiều hơn.
Nước chấm lòng cá khi chế biến xong sẽ có màu vàng đậm của nghệ tươi, điểm sắc đỏ của ớt và chút màu xanh của hành lá. Đó cũng là thời điểm mọi người cùng nhau thưởng thức hương vị đậm đà của món rau rừng đồ. Vị chát, đắng tự nhiên ở đầu lưỡi hòa quyện cùng với vị béo, ngọt, cay, thơm của thứ nước chấm lòng cá sẽ để lại ở mỗi thực khách những dư vị khó diễn tả thành lời.
Món rau rừng đồ là món ăn quen thuộc hàng ngày của người dân Hoà Bình. Trong những bữa ăn dịp lễ tết cũng không thể thiếu vắng món ăn độc đáo này. Vào dịp lễ tết các gia đình ở Hoà Bình mở cỗ rất to với nhiều món thịt mán, cá nướng, thịt trâu,… Những món ăn này nếu thưởng thức nhiều sẽ có cảm giác ngấy, và một đĩa rau rừng lành tính sẽ giúp cân bằng lại vị giác của bạn.
Địa chỉ ăn món rau rừng đồ ở Hòa Bình:
Nhà hàng ẩm thực Việt – Khu Thắng Lợi, thị trấn Thanh Hà, Lạc Thủy, Hòa Bình
Nhà hàng Đảo Xanh – Thung Nai, Cao Phong, Hòa Bình
Nhà hàng Hồ Ngọc – QL6, Trung Minh, Kỳ Sơn, Hòa Bình
Cải mèo
Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì xung quanh lá cây được bao phủ bởi lớp lông, lá có các đường viền. Cải mèo được chế biến thành nhiều món ăn phong phú như: cải mèo luộc, canh cải mèo, cải mèo xào thịt bò,…
Cải mèo luộc chấm nước mắm dầm trứng chế biến hết sức đơn giản. Mua cải về, tách từng bẹ rau ra rửa sạch rồi xắt ra thành từng khúc dài 4-5 cm, cho vào luộc với nước đã đun sôi già. Nêm thêm vài hạt muối trắng và lật trở đều tay cho rau xanh màu. Đập thêm vài lát gừng cho thơm rau. Rau vừa chín tới thì vớt ra, bày lên đĩa.
Luộc hai quả trứng gà rồi dầm với nước mắm hoặc nước tương (xì dầu). Và ăn nóng. Ăn tới đâu là biết liền tới đó. Cái vị đăng đắng, ngăm ngăm vừa phải của rau quyện với vị ngọt, vị thơm, vị mặn của xì dầu, rồi là cái béo của lòng đỏ trứng gà… Tất cả hòa thành một thứ hương vị rất mê hoặc, ăn một miếng rồi lại muốn ăn thêm, ăn một lần rồi lại muốn ăn thêm lần nữa…
Ăn cải mèo nơi này ấn tượng nhất là cái vị đăng đắng ngăm ngăm của nó. Đăng đắng vừa phải, vừa đủ. Đăng đắng qua rất nhanh để rồi khi qua đi, lại cảm nhận rõ thêm cái ngọt ngào, tươi non, mềm mại của rau; ngọt ngào, đậm đà của nước chấm. Cái vị đăng đắng, ngăm ngăm ấy, đã ăn một lần thì chẳng dễ gì quên được. Mùa đông, ăn cải mèo nơi đây luộc chấm mắm dầm trứng, vừa ngon, vừa bổ mà lại mát lòng mát dạ.
Địa chỉ ăn món cải mèo ở Hòa Bình:
Nhà sàn số 19 Hùng Mếch – Số 19 Bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa Bình
Các quán ở Bản Lác – Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình
Rượu cần
Rượu cần của người Mường thường gọi là rượu cần Mường Vang là một loại đồ uống từ lâu đời.
Khác với một số dân tộc khác như Ê Đê, M’Nông ở khu vực Tây Nguyên chỉ dùng một chiếc cần duy nhất, người Mường Hoà Bình sử dụng nhiều cần rượu, mỗi người một cần để nhiều người có thể cùng uống. Đặc biệt là khi nhà có đông khách quý, trong dịp lễ Tết, hội hè, người Mường mới tổ chức uống rượu cần.
Các gia đình người dân tộc Thái, Mường ở một số địa phương trong tỉnh theo cách truyền thống vẫn tự làm rượu cần để dùng trong lễ Tết, hội hè hay khi nhà có việc. Nơi nhà sàn bập bùng bếp lửa, trong âm thanh trầm bổng của cồng, chiêng, già, trẻ, gái, trai cùng vít cần rượu mà thưởng thức vị ngọt ngào, ấm áp của hạt gạo, lá cây được làm từ bàn tay khéo léo của các ông bố, bà mế. ở một khía cạnh nào đó, uống rượu cần mang nét độc đáo của lối sinh hoạt văn hoá truyền thống.
Rượu cần thường được dùng trong những dịp lễ hội, ngày Tết cổ truyền hoặc đám hiếu hỷ có đông người tham dự của dân tộc Mường. Hiện nay, Hòa Bình có gần 200 cở sở sản xuất rượu cần cung cấp hàng nghìn bình rượu ra thị trường và đa phần tập trung ở khu vực thị xã Hòa Bình & huyện Lương Sơn. Do thấy kinh doanh rượu cần có lãi, nhiều ông chủ lớn ở Hà Nội và các vùng lân cận tới các địa chỉ có tiếng ở các vùng “mường Bi, mường Vang“ tìm đối tác sản xuất rượu cần thương phẩm. Họ đầu tư vốn, còn người bản xứ đảm nhiệm về mặt kỹ thuật. Từ đó, thương hiệu rượu cần Hòa Bình được xây dựng và gìn giữ trong thời gian dài và được đông bảo khách hàng quan tâm thưởng thức.
Qua tìm hiểu, Hòa Bình có nhiều công thức làm rượu cần riêng, nên có hương vị khác nhau. Tuy vậy, nguyên liệu nhìn chung gồm có nếp than, men lá, lá thuốc, vỏ trấu. Trong nguyên liệu làm rượu cần thì men là quan trọng nhất, nó quyết định rượu có ngon hay không. Men rượu ngon là men truyền thống của người Mường được làm từ 24 nguyên liệu từ ớt, lá lọt núi gừng, riềng, lá mít , vỏ long não, ổi và 1 số lá cây rừng … trong men lá rừng không bao giờ thiếu là vỏ cây gỗ mun. Vỏ cây mun có tác dụng khử độc rất tốt nên người uống không bị đau đầu và gây độc hại đối với cơ thể. Tuy nhiên, hiện nhiều cơ sở do lợi nhuận không dùng men lá cây.
Dân ta có câu “Rượu ngon thì cất lâu” nên muốn có rượu cần ngon phải ủ trên ba tháng, quý hơn nữa phải ủ ba năm tới khi có nước màu nâu sẫm uống có vị ngọt, vừa có vị đắng. Nếu làm đúng quy trình trên, mỗi năm chỉ sản xuất vài ngàn bình và chi phí cho loại rượu cần chính hiệu không dưới 100.000 đồng/bình (loại dung tích vừa phải). Tuy vậy, số cơ sở sản xuất rượu cần đúng quy trình này không nhiều. Phần lớn các cơ sở sản xuất theo kiểu đại trà, chạy theo số lượng, nên chất lượng giảm. Để cạnh tranh về giá cả, các cơ sở sản xuất rượu cần theo kiểu “mì ăn liền” với nguyên liệu là gạo nếp rẻ tiền, dùng men Trung Quốc chỉ ủ một tuần là đã xuất lò. Đó là chưa kể khi vào vụ với nhiều đơn đặt hàng, một vài cơ sở sản xuất còn cho đường kính để thúc đẩy quá trình lên men rồi tự gán cho thứ “rượu nhanh” đó cái mác “rượu cần dân tộc Hòa Bình“ rồi bán với giá bình dân 15 đến 50.000 đồng/vò. Việc sản xuất rượu cần “chợ” như hiện nay đã gây thiệt hại lớn về kinh tế, sức khỏe cho người tiêu dùng. Về lâu dài làm mất uy tín một “thương hiệu“ của một mặt hàng có tiềm năng tiêu thụ lớn.
Do vậy, để thương hiệu rượu cần Hoà Bình mang đúng nghĩa cần có nhiều cơ sở sản xuất men hơn nữa. Đồng thời, ý thức của người làm rượu cần được nâng lên, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) đã trao giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể rượu cần đặc sản tỉnh Hoà Bình cho Hội SX-KD rượu cần tỉnh Hoà Bình. Theo đó, Cục Sở hữu trí tuệ bảo hộ nhãn hiệu rượu cần đặc sản tỉnh Hoà Bình cho Hội SX-KD rượu cần tỉnh tại tổ 3, phường Phương Lâm (TP Hòa Bình). Nhãn hiệu được bảo hộ tập thể không bảo hộ riêng. Màu sắc lô gô nhãn hiệu đỏ, vàng, trắng. 50 hộ SX-KD rượu cần ở TPHB, huyện Lương Sơn, Tân Lạc và Kỳ Sơn được sử dụng lô gô nhãn hiệu sản phẩm tập thể.
Ông Đỗ Văn Quỳnh, Chủ tịch Hiệp hội rượu cần tỉnh cho biết: “Đây là căn cứ pháp lý và là cơ hội để rượu cần vươn xa hơn thị trường trong nước và thế giới. Trong thời gian tới, chúng tôi có những chế tài, ưu đãi riêng với những hộ sản xuất rượu cần trong Hiệp hội nhằm hướng tới sản xuất rượu ngày càng chất lượng mang đúng nghĩa với thương hiệu rượu cần Hoà Bình”.
Lời cuối, chúng ta dù là người sử dụng hay kinh doanh sản phẩm Rượu cần Mường Vang thì chúng ta hãy xây dựng và gìn giữ nét đẹp văn hóa của dân tộc Mường tại vùng quê Hòa Bình. [ruoucan.biz]
Địa chỉ uống món rượu cần ở Hòa Bình:
Rượu Cần Mường Vang – Xã Thành Lập, Thành Lập, Lương Sơn, Hòa Bình
Cơm lam
Đã bao đời nay, cơm lam hiện hữu trong đời sống người Mường và cũng chẳng ai biết rằng từ ngàn đời xưa ai là người đã nghĩ ra việc dùng ống nứa thay cho cái nồi, cái niêu… chỉ biết rằng cơm lam là một món ăn của núi rừng, là một thứ đặc sản và cũng chỉ là một phần của văn hoá ẩm thực của người Mường.
Cơm lam Hòa Bình mang hương vị thơm dẻo của gạo nếp nương và cốt dừa.
Hòa Bình nổi tiếng có loại gạo nương vô cùng dẻo thơm. Đó là nguyên liệu chính để tạo nên món cơm lam đầy sức hấp dẫn này. Không biết món cơm độc đáo này ra đời từ bao giờ, nhưng chỉ biết rằng người dân miền núi thường phải đi rừng rất vất vả, nhọc nhằn có khi đi từ lúc sáng sớm tinh mơ cho tới lúc tối mịt hoặc thậm chí phải ngủ lại trong rừng. Nên họ mang theo một chút gạo để khi đói sẽ chặt lấy ống tre, ống nứa bên đường, bỏ chút gạo và chút nước suối để nướng những ống cơm ăn qua bữa, từ những thói quen từ ngàn xưa để lại, một thói quen rất bình dân, dễ làm thế mà không ngờ nay đã được tôn lên thành một món ăn đặc sản của núi rừng – món cơm lam. Món cơm lam có rất ở nhiều nơi từ người Tày, người Thái, người Nùng, người Mường… đều có loại cơm này. Tuy nhiên, Hoà Bình là nổi tiếng hơn cả vì nơi đây có loại gạo nương thơm lại dẻo nổi tiếng.
Ngày nay, cách làm cơm lam đã có đôi chút khác so với trước, con người không làm cơm lam để “cho qua bữa” nữa mà cơm lam đã trở thành một sản phẩm du lịch để người ta ăn “chơi” . Gạo nếp nương được ngâm qua đêm, trộn cùng với cùi dừa thái sợi và nén vào trong ông nứa dài khoảng 30 phân. Khi nén gạo vào ống, người ta bỏ thêm một chút nước cốt dừa rồi nút ống lại bằng mía hoặc lá chuối và nướng trong khoảng 2 tiếng trên bếp củi là chín cơm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn dễ dàng nhận ra giá trị truyền thống của món ăn độc đáo này, nó vẫn mang đầy đủ dáng dấp của một nền văn hoá bản địa. Để thêm phần phong phú thì cơm lam có thể ăn chung cùng với thịt gà, măng chua… nhưng ngon nhất vẫn là cơm lam chấm muối vừng.
Khi ăn món đặc sản Hòa Bình này, thực khách cần chẻ qua lớp vỏ cháy bên ngoài, rồi tách thật khéo léo để không bị bể lớp cơm bên trong ống. Những hạt gạo nếp nương thơm dẻo hòa quyện cùng vị béo ngậy của cốt dừa chắc chắn sẽ mang lại những hương vị tinh tế cho thực khách khi đến với miền sơn cước này.
Ống cơm lam của người Hoà Bình thường nhỏ hơn và có mùi vị khác với cơm lam của các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn…Tuy cơm lam Hoà Bình không có hạt lạc, hạt đậu trong đó nhưng đựoc thay bằng mùi thơm đặc trưng của dừa và nước cốt dừa, mùi của mía, của lá rừng Hoà Bình.
Những sản vật của núi rừng Hòa Bình luôn làm hài lòng những vị khách khó tính nhất, tuy nhiên đến Hòa Bình phải được nếm hương vị của cơm lam thì mới có cảm nhận được hương vị của miền sơn cước này. [Báo Đại Đoàn Kết]
Địa chỉ ăn món cơm lam ở Hòa Bình:
Nhà hàng bếp Mường – Khu du lịch suối khoáng, Kim Bôi, Hòa Bình
Nhà hàng cơm lam Mường Động – Hạ Bì, Kim Bôi, Hòa Bình
Nhà hàng Hợp Thủy – Ẩm thực Mai Châu, Hòa Bình (Restaurant-Bar) – Tiểu khu 2 TT. Mai Châu. Gần cổng chào. Cách bản Lác 02 KM, Mai Châu, Hòa Bình
Cam Cao Phong
Từng bị lép vế và nhầm lẫn với các loại cam khác trên thị trường, nhưng nay, cam Cao Phong đang từng bước xây dựng và khẳng định thương hiệu. Không chỉ được bảo hộ trên toàn lãnh thổ quốc gia, cam Cao Phong còn là 1 trong 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam được bảo hộ tại EU.
Huyện Cao Phong (Hòa Bình) không chỉ là một trong những vựa cam lớn nhất miền Bắc mà còn là địa phương điển hình về làm thương hiệu cho nông sản. Những năm 60 của thế kỷ trước, cam đã được trồng thành vùng tại đây. Với chất lượng thơm ngon đặc trưng, cam Cao Phong từng được xuất khẩu sang Liên Xô, sau đó, vì nhiều nguyên nhân, diện tích, sản lượng cam giảm dần. Trước tình hình đó, huyện Cao Phong đã chỉ đạo vực dậy cây cam.Nếu như năm 2014, diện tích trồng cây có múi tại huyện Cao Phong mới dừng ở 1.200ha, sản lượng 16.500 tấn thì đến vụ cam 2019 – 2020, huyện có gần 3.016ha cây ăn quả có múi, sản lượng trên 40.000 tấn. Trong đó, hơn 1.018ha trồng cam được cấp chứng nhận VietGAP với sự tham gia của 759 hộ.
Nhiều năm nay, cam Cao Phong đã trở thành một thương hiệu nông sản chủ lực của tỉnh Hòa Bình. Cao Phong đang phát triển 4 giống cam chính là cam lòng vàng, cam Xã Đoài, cam canh và cam V2. Lịch trình phát triển của sản phẩm cam Cao Phong được đề ra rõ ràng, chú trọng đầu tư xây dựng thương hiệu để có khả năng nhận diện, cạnh tranh trên thị trường. Từ năm 2010 – 2015, cam Cao Phong bắt đầu giai đoạn sản xuất theo tiêu chuẩn, xây dựng thương hiệu; năm 2015-2020, tiếp tục bảo vệ thương hiệu, phát triển chỉ dẫn địa lý, nâng cao giá trị sản phẩm, nâng cao hiệu quả diện tích cây có múi đã được quy hoạch.
Để làm được điều này, tỉnh Hòa Bình đã phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tích cực ứng dụng khoa học – kỹ thuật, huy động các nguồn lực liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.Với những bước đi đúng đắn, bài bản, cam Cao Phong dần khẳng định chất lượng, ưu thế vượt trội trên thị trường. Năm 2007, cam Cao Phong được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận logo nhãn hiệu hàng hóa, Tạp chí Thương hiệu Việt bình chọn Top 100 thương hiệu Việt. Năm 2010, được Hội Sở hữu trí tuệ cấp bằng công nhận nhãn hiệu cạnh tranh Việt Nam.
Đặc biệt, tháng 11/2014, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp chứng nhận Chỉ dẫn địa lý Cao Phong cho 4 giống cam tại thị trấn Cao Phong và 5 xã. Đây là hình thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cao nhất dùng cho các sản phẩm có chất lượng đặc thù do điều kiện địa lý của khu vực đó quyết định. Sự kiện này là bước đột phá, tạo lập vị thế nông sản đặc trưng, nổi bật, mở ra nhiều cơ hội vươn ra thị trường lớn -bước ngoặt trong hành trình xây dựng và phát triển thương hiệu cam Cao Phong.
Trong chỉ dẫn bước đầu được bảo hộ cho bốn giống cam bao gồm:
- Giống cam v2
- Giống cam Xã Đoài lùn
- Giống cam Xã Đoài cao
- Cam canh
- (sắp tới sẽ là Cam lòng vàng)
Hơn 6 năm qua, cam Cao Phong vẫn là sản phẩm đầu tiên và duy nhất của tỉnh được chứng nhận chỉ dẫn địa lý, khẳng định thương hiệu nông sản mạnh nhất của tỉnh, niềm tự hào của tỉnh Hòa Bình. Cùng với việc tạo lập, để giữ thương hiệu, huyện Cao Phong đã thành lập Ban kiểm soát chỉ dẫn địa lý nhằm tăng cường quản lý và kiểm soát, tránh trà trộn cam các nơi khác mạo danh cam Cao Phong. Năm 2018, huyện đã thực hiện dán tem truy xuất nguồn gốc có bao bì và logo riêng để người tiêu dùng dễ nhận biết. Ngoài ra, một số dự án nhà máy sơ chế ban đầu đã manh nha hình thành, giúp mở rộng cơ hội xuất khẩu cho cam Cao Phong.
Địa chỉ ăn món cam Cao Phong ở Hòa Bình:
Đường huyện Cao Phong khi vào mùa – Cao Phong, Hoà Bình
Chả cuốn lá bưởi
Món chả không phải là món ăn mới lạ của người Mường, vì đâu đâu cũng chế biến món này trong mâm cỗ nhưng chả cuốn lá bưởi có lẽ chỉ vùng đất này mới có. Đó là sản phẩm của bàn tay khéo léo, trí tưởng tượng phong phú và sự kết hợp hài hòa giữa các nguyên liệu của người Mường nơi đây
Để chế biến được món chả lợn cuốn lá bưởi, người Mường Hòa Bình đặc biệt chú trọng đến khâu tìm chọn nguyên liệu
Không quá cầu kỳ để tìm nguyên liệu chế biến món ăn này. Chỉ cần ra vườn nhà, chọn hái những lá bưởi đang độ non bánh tẻ, bề mặt lá xanh bóng, dẻo.
Thông thường người Mường hay chọn lá bưởi ta, bưởi dại, bưởi chua vì theo người chế biến, loại lá bưởi này sẽ rất thơm, cay nồng và đậm đà hơn bưởi lai.
Cùng lá bưởi là thịt lợn của người Mường nuôi, loại thịt ba chỉ có lẫn nạc và mỡ, hành củ, hạt sẻng, hạt dổi, rau thơm các loại và không quên chuẩn bị than hoa.
Lá bưởi hái về rửa sạch, để ráo nước, thịt lợn ba chỉ thái mỏng hoặc băm nhuyễn rồi trộn lẫn hành củ, hạt dổi, hạt sẻng và các loại rau thơm, nêm thêm chút nước mắm ngon và bột ngọt để chừng 10 phút cho thịt ngấm gia vị.
Cách chế biến chả cuốn lá bưởi không quá cầu kỳ, chỉ cần cho nhân thịt vào giữa lá bưởi rồi cuốn tròn theo chiều ngang, khi cuốn hết bề mặt lá, dùng một tăm nhọn xiên ngang miếng chả để giữ lá, tạo độ chặt cho miếng chả.
Chả cuốn xong, người chế biến kẹp vào phên nướng hoặc vào kẹp tre rồi nướng trên than hồng. Khi nướng phải lật đi lật lại nhiều lần để cho lá bưởi khỏi cháy. Khi lá bưởi đã chuyển màu xám thì chả chín, có thể mang ra thưởng thức.
Chả cuốn lá bưởi ăn khi nóng thì tuyệt ngon. Khi thưởng thức, dư vị chả đậm đà, lạ miệng. Cảm nhận đầu tiên là vị thơm nồng, cay cay của lá bưởi, vị thơm ngọt của thịt lợn hòa vào các gia vị khiến cho miếng chả vừa mềm vừa thơm ngon.
Đặc biệt, chả cuốn lá bưởi ngon nhất khi chấm với muối ớt cùng với hạt dổi nướng.
Theo người Mường ở Hòa Bình , chả cuốn lá bưởi không đơn thuần là món ăn mà còn là một vị thuốc tốt.
Chả cuốn lá bưởi sẽ tốt cho huyết áp, hô hấp và tiêu hóa. Vì thế, trong bữa ăn hằng ngày hoặc khi nhà có khách quý và ngày hội bản, đồng bào Mường thường chế biến món ăn này trong mâm cỗ nhà mình
Trên đây là phần giới thiệu về món chả cuốn lá bưởi đặc sản của người Mường Hòa Bình . Hi vọng đã có thêm thông tin về món ăn đặc biệt này.
Địa chỉ ăn món chả cuốn lá bưởi ở Hòa Bình:
- Khu du lịch bản Mường Giang Mỗ – Bình Thanh, Cao Phong, Hòa Bình
- Khu du lịch hồ Hòa Bình – Cảng, Thung Nai, Cao Phong, Hòa Bình
An Hòa Food tổng hợp và biên soạn.
Nếu bạn thấy hay và bổ ích thì giúp An Hòa Food chia sẻ cho mọi người yêu đặc sản quê hương mình được biết nhé 🙂
Tìm hiểu chung về tỉnh Hòa Bình >>
Tìm hiểu chung tỉnh Hoà Bình – Tây Bắc Bộ
Hòa Bình là tỉnh miền núi tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội, có diện tích tự nhiên khoảng 4.600km²; đơn vị hành chính bao gồm 10 huyện và 1 thành phố; 210 xã, phường, thị trấn. Dân số trên 80 vạn người, với 6 dân tộc chính (Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, H’Mông) trong đó dân tộc Mường chiếm đa số với trên 63%.
Hòa Bình nằm ở vị trí cửa ngõ vùng Tây Bắc Việt Nam, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 76 km theo hướng quốc lộ 6, là khu vực đối trọng phía Tây của Thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ; phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Thanh Hóa, phía Đông Nam giáp tỉnh Hà Nam, Ninh Bình.
Tỉnh có mạng lưới giao thông đường bộ và đường thủy tương đối phát triển, trong đó có các tuyến đường quốc gia quan trọng đi qua như: đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 6, Quốc lộ 12B, trong tương lai là đường cao tốc Hòa Bình đi Hòa Lạc (Hà Nội) … Mạng lưới giao thông phân bố khá đều khắp, kết nối Hòa Bình với các tỉnh trong khu vực và các địa phương trong tỉnh khá thuận lợi. Vị trí địa lý của tỉnh là một điều kiện thuận lợi cho Hòa Bình mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế.
Đặc điểm nổi bật của địa hình tỉnh Hoà Bình là đồi, núi dốc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, chia thành hai vùng rõ rệt: phía Tây Bắc (vùng cao) và phía Đông Nam (vùng thấp).
2. Khí hậu:
Hoà Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia thành hai mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên 23 °C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27 – 29 °C, ngược lại tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5-16,5°C, độ ẩm trung bình: 60%, lượng mưa trung bình: 1.800mm.
3. Tài nguyên đất
Hòa Bình có diện tích đất tự nhiên 4.600km². Đất đai Hòa Bình có độ màu mỡ cao thích hợp với nhiều loại cây trồng. Với hàng trăm ngàn ha đất gồm các lô đất liền khoảnh có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau nhất là trồng rừng, trồng cây công nghiệp để phát triển công nghiệp chế biến nông – lâm sản và phát triển công nghiệp. Phần đất trống, đồi núi trọc khó phát triển nông nghiệp và trồng rừng thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng các khu công nghiệp.
4. Tài nguyên nước
Tỉnh Hòa Bình có mạng lưới sông, suối phân bổ khắp trên tất cả các huyện, thành phố. Nguồn cung cấp nước lớn nhất của Hòa Bình là sông Đà với tổng chiều dài 151 km. Hồ Hòa Bình với diện tích mặt nước khoảng 8.000 ha, dung tích 9,5 tỷ m3 ngoài nhiệm vụ cung cấp nước Nhà máy thủy điện Hòa Bình, còn có nhiệm vụ chính là điều tiết và cung cấp nước cho vùng Đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, sông Đà là nguồn nước quan trọng đáp ứng nhu cầu nước sạch cho Thủ đô Hà Nội.
Ngoài ra, Hòa Bình còn có hai con sông lớn nữa là Sông Bôi và Sông Bưởi cùng với khoảng 1.800 ha ao hồ, đầm nằm rải rác trên địa bàn tỉnh. Đây cũng là nơi trữ nước, điều tiết nước và nuôi trồng thủy sản tốt.
5. Tài nguyên rừng
Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Hoà Bình là 251.315 ha, chiếm 54,7% diện tích tự nhiên; trong đó đất rừng tự nhiên 151.949 ha, đất rừng trồng 98.250 ha. Rừng Hòa Bình có nhiều loại dược liệu quý: xạ đen, giảo cổ lam, củ bình vôi … dùng làm thuốc chữa bệnh; các loại cây: tre, bương, luồng … trữ lượng lớn phục vụ ngành chế biến bột giấy, ván sàn, ván ép.
Trên địa bàn tỉnh còn có các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia: Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, Khu Bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (chung với Thanh Hóa), Khu Bảo tồn thiên nhiên Phu Canh, Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn, Vườn Quốc gia Cúc Phương (chung với Ninh Bình và Thanh Hóa), Vườn Quốc gia Ba Vì (chung với Hà Nội và Khu bảo tồn đất ngập nước lòng hồ Hòa Bình. Đây là các khu vực có đa dạng sinh học cao, có giá trị cho nghiên cứu và phát triển du lịch.
6. Tài nguyên khoáng sản
Hòa Bình có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng phục vụ tốt cho phát triển các ngành công nghiệp nguyên liệu, nhiên liệu, xây dựng, như than đá, đá vôi, đá granit, amiăng, cát, đất sét …
Đặc biệt, còn có nhiều điểm nước khoáng, nước nóng với hàm lượng khoáng cao, trữ lượng lớn, phục vụ các lĩnh vực du lịch, chữa bệnh, giải khát, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
7. Tài nguyên du lịch
Tỉnh Hòa Bình có tài nguyên du lịch tự nhiên rất phong phú, đa dạng, bao gồm các sông, hồ, suối nước khoáng, các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia … trong đó đáng chú ý nhất phải kể đến Hồ Hòa Bình có diện tích khoảng 8.000 ha, với dung tích nước lớn và hơn 40 đảo nổi trong hồ, đây là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch tham quan, du lịch sinh thái. Bên cạnh đó khu du lịch Suối khoáng Kim Bôi cũng có sức hút rất lớn với du khách gần xa, thuận lợi cho phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tham quan, chữa bệnh.
Hòa Bình còn được biết đến là cái nôi của nền “Văn hóa Hòa Bình” nổi tiếng thế giới với hệ thống di chỉ khảo cổ dày đặc; hệ thống lễ hội dân gian, phong tục tập quán độc đáo, đặc sắc. Chính nét đa dạng văn hóa đã tạo nên sức hấp dẫn lớn cho phát triển du lịch nhân văn của tỉnh Hòa Bình.
Hiện toàn tỉnh có 185 điểm di tích được đưa vào hồ sơ nghiên cứu, quản lý, 21 di tích cấp tỉnh và 37 di tích được Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch xếp hạng. Một số điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Hòa Bình bao gồm: Lòng hồ Sông Đà (TPHB), núi Đầu Rồng (Cao Phong), Động Tiên (Lạc Thủy), Suối khoáng (Kim Bôi), Bản Lác, Bản H’mông (Mai Châu), Bản Mường Giang Mỗ (Bình Thanh – Cao Phong), Bảo tàng Không gian Văn hóa Mường (TP. Hòa Bình) …
An Hòa Food sưu tầm từ nguồn hoabinh.gov.vn
Tìm hiểu đặc sản tỉnh Hòa Bình >>
Tổng quan tỉnh Điện Biên
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – XÃ HỘI
1. Diện tích tỉnh Điện Biên:
Diện tích tự nhiên: 9.541,25 km2 .
2. Vị trí địa lý
Điện Biên là một tỉnh biên giới miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có tọa độ địa lý 20o54’ – 22o33’ vĩ độ Bắc và 102o10’ – 103o36’ kinh độ Đông.
Nằm cách Thủ đô Hà Nội 504 km về phía Tây, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sơn La, phía Bắc giáp tỉnh Lai Châu, phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Tây và Tây Nam giáp CHDCND Lào.
Là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2 quốc gia Lào và Trung hơn 455 km, trong đó: Đường biên giới tiếp giáp với Lào là 414,712 km; với Trung Quốc là 40,86 km; có đường giao thông đi các tỉnh Bắc Lào và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường hàng không từ Điện Biên Phủ đi Hà Nội với tần suất bay bình quân ngày 02 chuyến.
Tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện với 130 xã, phường, thị trấn (trong số đó có 29 xã biên giới); dân số gần 55 vạn người, gồm 19 dân tộc anh em.
Trên tuyến biên giới Việt – Lào, ngoài 2 cửa khẩu đã được mở là Huổi Puốc và Tây Trang, còn 3 cặp cửa khẩu phụ khác sắp tới sẽ được mở. Trên tuyến biên giới Việt – Trung có cặp cửa khẩu A Pa Chải – Long Phú. Đặc biệt, cửa khẩu Tây Trang từ lâu đã là cửa khẩu quan trọng của vùng Tây Bắc và cả nước, được Chính phủ hai nước Việt Nam – Lào thỏa thuận nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế và Khu kinh tế cửa khẩu đang được xây dựng. Đây là điều kiện và cơ hội rất lớn để Điện Biên đẩy mạnh thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng khu vực này thành địa bàn trung chuyển chính trên tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền vùng Tây Bắc Việt Nam với khu vực Bắc Lào – Tây Nam Trung Quốc và Đông Bắc Mianma.
3. Địa hình
Do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo nên địa hình của Điện Biên rất phức tạp, chủ yếu là đồi núi dốc, hiểm trở và chia cắt mạnh. Được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam với độ cao biến đổi từ 200m đến hơn 1.800m. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông. Ở phía Bắc có các điểm cao 1.085m, 1.162 m và 1.856 m (thuộc huyện Mường Nhé), cao nhất là đỉnh Pu Đen Đinh cao 1.886m. Ở phía Tây có các điểm cao 1.127m, 1.649m, 1.860m và dãy điểm cao Mường Phăng kéo xuống Tuần Giáo. Xen lẫn các dãy núi cao là các thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc. Trong đó, đáng kể có thung lũng Mường Thanh rộng hơn 150km2, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh và toàn vùng Tây Bắc. Núi bị bào mòn mạnh tạo nên những cao nguyên khá rộng như cao nguyên A Pa Chải (huyện Mường Nhé), cao nguyên Tả Phình (huyện Tủa Chùa). Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi, nón phóng vật, sườn tích, hang động castơ,… phân bố rộng khắp trên địa bàn, nhưng diện tích nhỏ.
4. Khí hậu
Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao, mùa Đông tương đối lạnh và ít mưa; mùa hạ nóng, mưa nhiều với các đặc tính diễn biến thất thường, phân hoá đa dạng, chịu ảnh hưởng của gió tây khô và nóng.
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21o – 23oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất thường vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau (từ 14o – 18oC), các tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất từ tháng 4 – 9 (25oC) – chỉ xảy ra các khu vực có độ cao thấp hơn 500m.
Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.300 – 2.000mm, thường tập trung theo mùa, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76 – 84%. Số giờ nắng bình quân từ 158 – 187 giờ trong năm; các tháng có giờ nắng thấp là tháng 6, 7; các tháng có giờ nắng cao thường là các tháng 3, 4, 8, 9.
5. Dân tộc
Điện Biên là nơi hội tụ sinh sống của 19 dân tộc anh em (Thái; Mông; Kinh; Dao; Khơ Mú; Hà Nhì; Lào; Hoa (Hán); Kháng; Mường; Cống; Xi Mun; Si La; Nùng; Phù Lá; Thổ; Tày; Sán Chay và dân tộc khác). Mỗi dân tộc có những nét riêng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa… tạo thành bức tranh đa sắc màu cho nền văn hóa Điện Biên.
6. Dân Số
Theo kết quả điều tra sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2015, dân trung bình tỉnh Điện Biên 547.785 người, trong đó: nam 273.931; nữ có 273.854 người; dân số sống tại thành thị đạt 82.691 người; Dân số sống tại nông thôn đạt 465.094 người.
Kết cấu dân số ở Điện Biên có mấy nét đáng chú ý. Trước hết là “dân số trẻ” tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm 33.65%, người già trên 60 tuổi (với nam) và trên 55 tuổi (với nữ) là 10,59%; Mật độ dân số của Điện Biên hiện là 57,4 người/km2.
7. Các Đơn vị Hành chính
Tỉnh Điện Biên gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện:
Thành phố Điện Biên Phủ 7 phường và 2 xã
Thị xã Mường Lay (thị xã Lai Châu trước kia) 2 phường và 1 xã
Huyện Điện Biên 25 xã
Một góc khu hành chính thị xã Mường Lay.
Huyện Điện Biên Đông 1 thị trấn và 13 xã
Huyện Mường Ảng 1 thị trấn và 9 xã
Huyện Mường Chà 1 thị trấn và 11 xã
Huyện Mường Nhé 11 xã
Huyện Tủa Chùa 1 thị trấn và 11 xã
Huyện Tuần Giáo 1 thị trấn và 18 xã
Huyện Nậm Pồ 15 xã
Hiện tỉnh Điện Biên có 130 đơn vị cấp xã gồm 9 phường, 5 thị trấn và 116 xã.
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1. Tài nguyên đất
Theo số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất tính đến 31/12 năm 2014, Điện Biên có tổng diện tích đất là 954.125,06ha. Trong đó:
– Đất sản xuất nông chiếm chủ yếu với 75,89% tổng diện tích.
– Đất phi nông nghiệp (sử dụng để ở, phục vụ mục đích công cộng, trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp…) chiếm 2,54%.
– Đất chưa sử dụng vẫn chiếm diện tích tương đối lớn với 21,57%, chủ yếu là đất đồi núi, núi đá không có rừng cây.
2. Tài nguyên rừng
Là tỉnh miền núi nên Điện Biên có tiềm năng lớn về rừng. Toàn tỉnh có 350.854,79ha đất lâm nghiệp có rừng (chiếm 48,46% diện tích đất nông nghiệp của tỉnh). Trong đó: Rừng sản xuất chiếm 30,95%; rừng phòng hộ 55,31% và rừng đặc dụng chiếm 13,74%.
3. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản ở Điện Biên chưa được thăm dò đánh giá sâu về trữ lượng và chất lượng. Tuy nhiên, qua tra cứu các tài liệu lịch sử liên quan cho thấy, Điện Biên có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng về chủng loại, gồm các loại chính như: nước khoáng, than mỡ, đá vôi, đá đen, đá granit, quặng sắt và kim loại màu…, nằm rải rác trong tỉnh.
4. Tiềm năng du lịch
Điện Biên là tỉnh giàu tiềm năng du lịch, đặc biệt là lĩnh vực văn hoá – lịch sử. Nổi bật nhất là hệ thống di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ gồm: Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ – Mường Phăng; các cứ điểm Him Lam, Bản kéo, Độc lập; Các đồi A1, C1, D1, E1 và khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của Pháp (Khu hầm Đờ cát).
Bên cạnh đó là rất nhiều các hang động, nguồn nước khoáng và hồ nước tạo thành nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên phong phú, như: Rừng nguyên sinh Mường Nhé; các hang động tại Pa Thơm (Điện Biên), Thẩm Púa (Tuần Giáo); các suối khoáng nóng Hua Pe, U Va; các hồ Pá Khoang, Pe Luông…
Ngoài ra, Điện Biên còn có tiềm năng văn hóa phi vật thể, với 19 dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng rất đa dạng, hiện nay vẫn còn giữ được các phong tục tập quán vốn có, điển hình là dân tộc Thái và H’ Mông…
5. Hệ thống sông và nguồn tài nguyên nước
Điện Biên nằm ở khu vực đầu nguồn 3 con sông lớn của cả nước là: Sông Đà, sông Mã và sông Mê Kông.
Trong đó:
– Sông Đà ở phía Bắc tỉnh (giáp với tỉnh Lai Châu) bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) qua Mường Tè (tỉnh Lai Châu) – thị xã Mường Lay – Tuần Giáo rồi chảy về tỉnh Sơn La. Sông Đà (trên địa bàn Điện Biên có các phụ lưu chính là Nậm Ma, Nậm Bum, Nậm Pụ, Nậm Mức…) với tổng diện tích lưu vực khoảng 5.300km2, chiếm 55% diện tích tự nhiên của tỉnh; chảy qua các huyện: Mường Nhé, Mường Chà, Tủa Chùa, Tuần Giáo và thị xã Mường Lay.
– Hệ thống sông Mã có các phụ lưu chính là sông Nậm Khoai (huyện Tuần Giáo) và sông Nậm Mạ (huyện Điện Biên) với diện tích lưu vực 2.550km2. Đây là hệ thống sông lớn thứ hai của tỉnh.
– Hệ thống sông Mê Kông có diện tích lưu vực là 1.650km2 với các nhánh chính là sông Nậm Rốm, Nậm Núa. Sông Nậm Rốm bắt nguồn từ Bắc huyện Điện Biên qua thành phố Điện Biên Phủ – Pa Thơm (huyện Điện Biên) rồi chảy sang Lào. Sông Nậm Núa bắt nguồn từ Mường Nhà chảy theo hướng Nam – Bắc sau đó chuyển sang hướng Đông – Tây và gặp sông Nậm Rốm ở lòng chảo Điện Biên rồi chảy sang Lào.
Nguồn tài nguyên nước mặt rất phong phú với hơn 10 hồ và hơn 1.000 sông, suối lớn nhỏ phân bố tương đối đồng đều. Sông suối ở Điện Biên nhiều, nguồn nước tương đối dồi dào. Đây là nguồn nước chủ yếu mà hiện nay Điện Biên đang khai thác và sử dụng. Tuy nhiên, địa hình cao, dốc; nhiều thác, ghềnh; có lượng dòng chảy lớn; lượng dòng chảy giảm dần từ phía Bắc đến phía Nam của tỉnh. Các huyện Mường Chà và phía bắc Tuần Giáo có một dòng chảy từ 30 – 40 l/s/km2; huyện Điện Biên và phía nam Tuần Giáo chỉ còn 20 l/s/km2. Vì vậy, khả năng giữ nước vào mùa khô rất khó khăn.
Nguồn nước ngầm của tỉnh Điện Biên được tập trung chủ yếu ở các thung lũng lớn như huyện Điện Biên, Tuần Giáo, Tủa Chùa. Các thung lũng này có trữ lượng nước ngầm khá lớn và hình thành túi đựng nước ở độ sâu từ 20 đến 200m. Tuy nhiên, hiện nay mới chỉ thực hiện một số mũi khoan thử nghiệm, chưa đi vào khai thác.
Tiềm năng thủy điện:
Theo khảo sát sơ bộ, tại Điện Biên có nhiều điểm có khả năng xây dựng nhà máy thuỷ điện, trong đó đáng chú ý là các điểm: Thuỷ điện Mùn Chung trên suối Nậm Pay, thuỷ điện Mường Pồn trên suối Nậm Ty, thuỷ điện Nậm Mức trên sông Nậm Mức, thuỷ điện Nậm He trên suối Nậm He, thuỷ điện Nậm Pồ trên suối Nậm Pồ, hệ thống thuỷ điện trên sông Nậm Rốm, Nậm Khẩu Hú… Tuy nhiên, việc khai thác các tiềm năng này còn ở mức khiêm tốn. Hiện nay trên địa bàn tỉnh mới có một số nhà máy thuỷ điện như Nà Lơi 9.300KW, thác Bay 2.400KW, Thác trắng 6.200KW, Nậm Mức 44Mw đang được xây dựng và khai thác khá hiệu quả.
Nguồn tổng hợp từ Wikipedia, dienbien.org.vn